Cô Ba Cháo Gà 13 - Du Ký Tiên Long Thiên Cảnh
Cảnh Địa Tiên
Hôm nay tôi xin tiếp tục thuật những cảnh trí thanh tịnh mà tôi đến, tận nơi, mắt thấy, tai nghe một cách tường tận (chỗ nào tôi xin nói rõ là chư thần trục hồn và đưa tôi đi, còn xác tôi thì nằm thiêm thiếp ở nhà như người sắp chết).
Trước khi thuật lại những cảnh thanh tịnh đẹp đẽ này, tôi xin nói rõ lý do mà tôi được đến. Nguyên trước kia tôi là người tội lỗi, nên phải chịu trả nghiệp (xem quyển Địa ngục ký thì rõ), sau khi đã đến tội và nhờ lời đại nguyện, tôi phá xong mười cửa ngục và ngục vô gián. Để khuyến khích tôi tinh tấn trên đường tu hành, và cũng để sau này tôi thuật lại cho đời nghe mà thêm lòng tin vững chắc. Cho nên Nhất điện Tần Quảng Vương phê chiếu chỉ cho tôi được viếng cảnh Địa Tiên, Nhơn Hiền và cảnh Long Vương trước khi về cõi thế.
Sau khi lãnh chiếu chỉ, chư thần đỡ tôi bay bỗng lên mây. Từ cảnh Địa ngục qua cảnh Địa tiên phải vượt qua biển mênh mông chỉ nhìn thấy mây và nước.
Đến nơi chư thần đáp xuống nhìn quang cảnh trí thật là xinh đẹp tưởng như cảnh trời nào vậy. Con người ở đây xinh đẹp và to lớn lạ thường. Khác hẳn người Dương thế nhỏ nhít xấu xa.
Người ở đây (phải gọi là Tiên mới đúng) không già, không chết, không bệnh tật, ốm đâu, sống với thiên nhiên, khỏi phải làm lụng nhọc nhằn vất vã, khỏi bận đến cơm ăn, áo mặc, chỗ ở chi hết. Hàng ngày chỉ lo tu hành, luân lạc nghe thuyết pháp, người tu trước dạy người tu sau, người lớn dạy người nhỏ tiếp tục truyền như vậy. Ngoài ra chỉ ngao du ngoạn cảnh, lượm ngọc, thưởng hoa. Nơi đâycó một kho báu rấy lớn không bút nào tả hết được. Ở giữa ngọc chất cao như núi, nhỏ có, lớn có, đủ màu sắc chiếu lên sáng rực một vòm trời, ngọn núi ngọc này được bao bọc bởi một dãy núi vàng, ngoài là dãy núi bạc bao bọc núi vàng như thành trì kiên cố. Tôi nghĩ bụng: "Ở đây châu ngọc chất thành núi mà chẳng ai dùng, còn ở cõi trần chỉ vì một viên ngọc nhỏ mà làm cho con người sanh tâm ác độc đến chỗ giết hại lẫn nhau thật là mê muội".
Thấy chúng tôi đằng vân vừa đến, các vị Đại Tiên ở đây ra chào mừng tiếp rước, các ngài tưởng tôi là người ở cõi đã tạo nhiều công đức với đời sau khi mãn số được đắc quả về đây. Lúc ấy chư thần theo tôi đến trình chiếu chỉ của Nhất Điện Tần Quảng Vương, các vị Đại Tiên mới rõ tôi là người đi dạp cảnh và còn trở lại cõi Diêm phù.
Được biết thế các ngài còn tỏ ra ân cần trọng hậu, có vị Đại Tiên phán: "Từ xưa đến nay, nào có ai chết đi mà sống lại, để thuật lại cho chúng sanh biết còn nhiều cõi đẹp đẽ vững chắc muôn đời, vì thế chúng sanh ở cõi Diêm phù sống trong giả cảnh khổ đau mà nào có biết chi chi thật là tội nghiệp. Chúng mê muội quay cuồng trong giả cảnh, và ngoài giả cảnh ấy còn bao nhiêu thật cảnh tốt đẹp đạo đức đời đời. Nơi đây, nơi đây không phải khổ vì sanh, già, bệnh, chết; Không phải khổ vì thiên tai, hỏa hoạn, không phải khổ vì chiến tranh, chết chóc, không phải khổ vì đói rét bức thân. Chứng ấy chúng sanh không bám níu giả cảnh nữa mà đi tìm cảnh thật hạnh phúc này.
Nhưng cũng may thay, nay hiền tăng đã đến đây rồi. Khi trở về cõi thế, tôi xin nhắn nhủ đôi lời với người phàm tục: "Ai cũng có chơn tánh Phật, phải ráng tu hành đặng về cảnh Phật, chớ cảnh Địa Tiên này còn thấp thỏi lắm. Cảnh này cũng còn là tạm, nơi để dìu dắt những bậc hiền nhơn nhưng còn kém phước về đương đạo. Chẳng hạn những người khi còn sống ở cõi thế trọn hiếu, trọn trung, hoặc trọng tiết mà không phạm tội sát sanh hại mạng, không hủy báng Tam Bảo khi chết được về cảnh Địa Tiên, hằng ngày lo học đạo tu thêm lần lần đắc quả về cõi Trời mà lo tu nữa. Như chúng tôi đây hằng ngày khuyên bảo nhau tu hành chớ không dám giải đãi sợ bị đọa trở lại cõi Diêm phù thì khó mà tìm con đường giải thoát. Chúng tôi đây vì biết đạo nên sợ tội lỗi mà tinh tấn tu hành, còn chúng sanh ở cõi Diêm phù bị sắc, tài, danh vọng ám ảnh chẳng khác nào con vật nhỏ bị nhốt trong cái tủ tối om, nào có hay biết gì ngoài cái tủ ấy cả một bầu trời bao la quang đãng. Chúng tôi xin hướng dẫn ngài đi dạo cảnh Đại Tiên khi trở về cõi thế thuật lại và khuyến khích chúng sanh ráng lo tu hành, nếu căn cơ còn kém tu không được thì cố ăn ở sao cho phải đạo làm người đừng sát sanh hại mạng hàng ngày tới lui Tam Bảo học đạo lần lần, khi chết chư thần sẽ đem về cảnh Địa Tiên này mà học đạo tu thêm".
Nói xong các ngài dẫn chúng tôi đi dạo cảnh. Tôi được biết vị tiên lớn nhất cai quản cõi Địa Tiên mặc áo đỏ râu vàng, chân mày bạc, cởi công. Các vị Tiên bậc trung thì mặc áo hồng hồng, y vàng lợt. Các vị tiên nhỏ thì mặc áo xanh, y trắng và không có râu. Chẳng hạn nam hay nữ ai ở động nào thì vào động đó, nói là động chớ thật ra uy nga như tháp to lớn ở cõi Diêm phù. Nhiều vị tiên ngồi thiền ở dưới những gốc cây to. Mặt đất ở đây như phalê cẩm thạch, trong sạch mát mẻ chớ không giống đất đá ở cõi Diêm phù. Nơi khác nhiều vị tiên đi kinh hành niệm Phật, nhiều chỗ ở các vị tiên tụng kinh như ở cõi Diêm phù.
Ở đây cây cối xum xuê tàn lá rậm rạp, trái đặc cây dùng không hết. Lạ một điều là trái nhiều hơn lá, phía dưới gốc cây không một trái rụng, không một chiếc lá rơi, mặt đất đâu đâu cũng bằng phẳng trong mát. Các vị tiên ở đây chỉ lo tu hành không bận tâm đến miếng ăn vật uống, mỗi tháng chỉ thọ thực 2 lần nhằm ngày 14 và ngày 30. Các vị tiên cho biết mỗi lần thọ thực như vậy no hoài không biết đói mà nghe trong thân khỏe khoắn nhẹ nhàng càng ngày càng lớn càng xinh đẹp, những người mới đắc quả mới về đây còn nhỏ nhít xấu xa nhưng vẫn đẹp hơn người cõi thế.
Các ngài dẫn tôi đi lần ra mé biển, bờ biển toàn là vàng có cục, có khối lăn lốc như đá cuội ở bờ biển cõi đời. Trên bãi biển nào cù, rồng, cua biển, rùa, rắn đủ màu sắc. Nếu chúng sanh ở cõi Diêm phù mà nhìn thấy chắc chết giấc. Một vị rồng bề dài chừng 300 thước, bề ngang độ 6 thước, một con rùa như chiếc xe hơi, con cua biển như xe bò. Dưới nước không biết bao nhiêu là cá đủ màu sắc. Cá có vẫy, cá có lông, cá có 4 mắt, cá có tay, cá có cánh, đó là chỉ nhìn sơ qua chớ không đủ thời giờ mà quan sát cho hết. Còn châu ngọc dưới biển cũng nhiều, chư tiên không có thời giờ để mà lượm, Lúc ấy có một vị tiên đi phăng phăng xuống biển, nước biển rẽ 2 bên thật là lạ, bỗng một luồng bạch quang từ dưới sẹt lên, vị tiên cuối xuống lượm lên một hột châu bèn dâng lên Đại Tiên, ngài dạy đem vào kho núi báu. Tôi thấy vậy bèn hỏi:
Bạch ngài, tại sao nơi đây không xài châu ngọc mà chứa thành núi để làm gì?
Vị tiên trả lời: Ở cõi đời này không xài châu ngọc nhưng Thượng Đế phê chiếu chỉ bảo các vị tiên ở đây phải lượm ngọc để dành, sau này đem về Mỏ thi ở cõi Diêm phù tại làng Kim Sơn mà xây thành núi báu cho chúng sanh ở cõi đó dùng. Từ ngày lãnh chiếu chỉ của Thượng Đế đến nay đã ngót 600 năm, hàng ngày chư tiên phải để ra một ít thời giờ để lượm châu ngọc trong các biển chứa nơi đây ngoài ra còn một ngọn núi báu ở cõi Long Vương nữa. Khi Hiền Tăng đến đó sẽ thấy, vì ngày giờ chưa đến nên chưa đem về xứ Mỏ Thi.
Nghe ngài nói vậy tôi bèn hỏi:
Bạch ngài: Châu ngọc này chừng nào đem về xứ Mỏ Thi, mà Mỏ Thi có phải là Mỹ Tho không ngài?
Vị tiên phán:
Ngày ấy không còn xa nữa, mà cũng chẳng gần, Hiền Tăng ráng tu sẽ thấy và ráng khuyên người đời đừng tham ác thì sau này mới hưởng được.
Kế vị Đại Tiên hướng dẫn tôi đi các nơi khác (nói là đi cho dễ hiểu, chớ thật ra bay như gió, chớ không phải bước từng bước như người cõi thế) nơi nào cũng mát mẽ xinh đẹp, đâu đâu cũng có hoa quả đầy đàng, tháp vàng, tháp ngọc hào quang sáng chói, thật trí phàm không sao nói hết được.
Dạo một đỗi vị Đại Tiên mời tôi cùng chư thần dự yến viên, vị Đại Tiên dẫn chúng tôi đến trung tâm, nơi đây lầu cát nguy nga giữa một vườn hoa rực rỡ, bỗng từ đâu bàn ghế mâm trái đầy dẫy, bình chung bằng châu ngọc để theo hàng, tôi lấy làm kinh ngạc bèn nghĩ bụng: "Người đời làm lụng vất vả mới tạo tác được thứ vật kia vật nọ, thế mà muôn vật có chi bền, rốt cuộc rồi cũng đều hư hoại, thân người rồi cũng già chết nào ai sống được trăm năm. Sao bằng nơi tiên cảnh ngày tháng tiêu dao vui thú trong cảnh nước non trăng gió, cảnh đẹp người xinh, không cần nhọc nhằn tạo tác mà muốn vật sẵn dùng, không già, không chết, sống mãi muôn đời thật là sung sướng biết bao". Vừa nghĩ thế nghe vị Đại Tiên mời tôi vào bàn dự tiệc, lúc ấy vị thần đi gần tôi bảo:
Mặc dầu vị Đại Tiên có lòng hậu đãi Hiền Tăng, nhưng Hiền Tăng đừng thọ thực vật này, vì Hiền Tăng còn trở lại cõi Diêm phù, nếu dùng của này khi Hiền Tăng trở về nhập xác no hoài không đói thì xác thân sẽ tiều tụy ốm đau làm sao tu hành được.
Lúc ấy vị Đại Tiên tiếp đãi rất trọng hậu, ngài mời mọc tôi đôi ba lần thấy nhiều trái lạ đủ màu sắc, mùi thơm ngào ngạt nhưng chỉ lấy mắt mà nhìn.
Thật ra tôi cũng muốn ăn thử một miếng cho biết, nhưng vì chư thần đã nói trước nên chẳng dám ăn. Trong lúc các vị tiên cùng chư thần vui vầy yến tiệc có một vị tiên tươi cười nói:
Tuy cảnh Địa Tiên này so với cõi Trời còn kém lắm, nhưng lấy cảnh Diêm phù mà sánh thì trăm phần không được một. Nơi cõi Diêm phù dù cho kinh thành hoa lệ tốt đẹp đến đâu cũng là giả tạo do đất đá cấu kết tạo thành. Còn nơi đây lầu cát toàn là châu ngọc, vì theo công đức tu hành cao thấp của các vị Tiên mà có lớn nhỏ xinh liïch khác nhau, cũng khỏi nhọc công xây cất, chỉ do tâm biến hóa tạo thành. Tiểu Tiên này trước kia cũng là người ở cõi Diêm phù, khi làm người, khi làm thú, khi tạo ác phải đọa vào Địa ngục đau khổ biết bao, đến khi đắc được quả tiên này nghỉ ra không biết trăm muôn ngàn kiếp phải chịu sanh tử luân hồi, sự khổ sở không bút mực nào tả hết. May nhờ được gặp minh sư dạy bảo tu hành, nhưng vì tu muộn phước ít nên chỉ đắc được quả tiên. Nay hồi tâm nghĩ lại bắt rùng mình rợn óc sợ cõi trần hơn nước sôi lửa đỏ.
Chúng sanh ở cõi Diêm phù sống say, chết ngủ, khi sống say mê danh lợi nào có lo học đạo tu tâm, khi chết thần thức mê mờ như người mê ngủ nào có biết chi chi, đành để cho nghiệp lực kéo lôi vào đường sanh tử. Chẳng khác nào như trẻ con theo mẹ nào có biết đi đâu và đến nơi nào thật là tội nghiệp. Khi Hiền tăng trở lại cõi Diêm phù, khuyên người đời ráng tu, dẩu chưa đủ phước duyên xuất gia đầu Phật vì còn phải làm việc để trả nợ đời phải tập tánh hiền lành, ăn ngay ở thật, hàng ngày tập ăn chay niệm Phật, khi chết cũng được về cảnh Địa Tiên này. Lúc ấy mới biết có trời, có Phật, có Thánh, có Thần, lúc ấy mắt, tai đều sáng mà nghe pháp tu hành. Chớ như chúng sanh ở cõi diêm phù có mắt như đui, có tai như điếc có thấy biết điều chi, Thánh Thần trước mắt nào có thấy, Pháp bảo vang dộinhư song gầm mà nào có nghe, chẳng qua vì bị trần cảnh nhận chìm, hố sâu danh lợi chôn lấp, tình luyến ái trói buộc khó lòng thoát khỏi. Ôi thôi! Sự mê mờ đau khổ của cuộc đời nói sao cho hết!.
Nghe ngài nói thế tôi ngậm ngùi chua xót cho đời và cũng cho chính mình. Sau khi yến tiệc mãn, tôi cùng chư thần kiếu các ngài để còn qua cảnh khác. đây là sơ lược cảnh Địa Tiên.
Cảnh Nhơn Hiền
Sau khi từ giã các vị Đại Tiên, chư thần dìu tôi đằng vân lên mây bay qua cảnh Nhơn Hiền. Cảnh này vẽ đẹp thua cảnh Địa Tiên, nhưng lâu đài nguy nga sang trọng mường tượng như kinh thành to lớn, nhưng các lâu đài này rời rạc uy nghiêm chớ không khít sát như thành phố cõi Diêm phù, người ở đây như bậc giàu sang ở cõi Diêm phù muốn chi có nấy, chỉ muốn là được chớ khỏi nhọc nhằn vất vả làm lụng chi cả. Người ở đây cũng không còn nạn khổ về sanh, già, bệnh, chết, hễ tu hành tinh tấn thì về cái cõi trời, còn ham vui giã đãi không chĩu tu hành thì trở lại cõi Diêm phù, nhập xác đầu thai làm người.
Tôi được chư thần cho biết, nếu người ở thế gian chỉ biết làm hiền, không hại đời, không phái đạo, sống theo nhơn đạo, hoặc tạo được chút phước mọn chi đó. Khi chết được chư thần rước về cảnh Nhơn Hiền tu thêm. Ở đây hàng ngày chỉ lo tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền lần hồi mới được về cõi trời. Hoặc giã khi chết có con cháu biết đạo, đem tiền bố thí, cúng chùa in kinh, tạt tượng hay mau vật phóng sanh mà hồi hương cho vong linh thì cũng được đắc quả về vời cõi trời hưởng phước.
Dẫu về được cõi Trời cũng phải tu thêm nhiều năm, nhiều kiếp (Kiếp ở đây là nói theo cõi đời, chớ các cõi khác không có sanh và tử) mới được về Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di đà. Còn nếu về trời ham vui không chịu tu hành đến ngày hết phước cũng bị đọa xuống trần gian chịu khổ nữa.
Người ở cõi Nhơn hiền đẹp và cao lớn hơn người ở cõi Diêm phù, một tháng thọ thực hai lần như cõi Địa Tiên. Hằng ngày không phải nhọc nhằn làm lụng chi tiết. Tất cả cảnh trí, cỏ cây, lầu đài đều do công đức tu hành biến hóa thành. Nơi đây khác hẳn với chúng sanh ở cõi Diêm Phù, nhọc nhằn xây dựng mà cũng không bền.
Đi dạo một vòng gặp các chư thần ở đây ra tiếp đón và hướng dẫn tôi đi dạo cảnh. Đi một lúc đến một tháp báu tôi thấy có một người nữ ngồi tụng kinh, lắng tai nghe biết là kinh Địa Tạng nhưng chẳng thấy quyển kinh. Tôi bèn hỏi: "Ở đây cũng tụng kinh nữa sao?" Người nữ đáp: "Thưa ngài, nơi đây rất cần tụng kinh để thâm nhập giáo lý của Đức Phật và để cầu siêu cho cửu huyền thất tổ. Vì ông nội tôi chết còn bị đọa nơi Địa ngục nên tôi phải tụng kinh Địa Tạng mà cầu siêu cho ông tôi.
Người dứt lời tôi xin kiếu từ để đi nơi khác. Lúc ấy nhằm giờ thọ trì kinh pháp và đi kinh hành nên không nói chuyện nhiều với ai được.
Nào tháp, nào chùa nguy nga đồ sộ, chư thần đưa tôi vào một ngôi chùa to lớn vô cùng và cho tôi biết chùa nầy có đến sáu trăm cây cột. Người trong chùa hành đủ pháp môn của Phật, ai hạp với pháp nào thì đến đó mà hành đạo, tùy theo căn cơ mỗi người, có lớp đang học có lớp đang hành, đó là sơ lược cảnh nhơn hiền.
Cảnh Long Vương
Khi từ giả cõi Nhơn hiền chư thần cũng dìu tôi đằng vân qua cảnh Long Vương và được các ngài cho biết về nhiệm vụ của Đức Long Vương đối với chúng sanh ở cõi Diêm Phù.
Đức LongVương là một vị Thánh Đế, ngài là chúa tể các vị Long Vương khác ở khắp biển và sông hồ. Ngài có tất cả 17 Hoàng Tử đều làm vua Long Vương ở khắp nơi trong quả địa cầu và 5 vị Công Chúa thường gọi là Ngũ Long Công Chúa. Hiện nay, Đức Long Vương đang hướng về Phật Pháp tu hành nhường sự cai quản lại cho các Hoàng Tử.
Cảnh Long Vương có một cái hang gió, một hang nước, một hang không khí (nói là hang vì nó giống như cái hang chớ thật ra mỗi cái hang to lớn lắm, và mỗi cái lại ăn thông vào một ngọn núi khổng lồ cao ngút tận mây, bên trong là máy nhiệm màu của Trời đất). Hang gió chuyển biến bốn mùa, vì có bốn cửa xoay chuyển tuần hoàn: Xuân, Hạ, Thu, Đông cho hợp thời tiết. Hang nước luân chuyển nguồn nước biển cả cho được điều hòa. Hang không khí đổi thay khí trời cho chúng sanh mới sống được. Hiện nay con người chết yểu vì không khí nhiễm nhiều khí độc làm biến hoại phần nào không khí thiên nhiên đó là ba hang cần yếu cho con người, thú vật và cây cỏ. Cảnh Long Vương chư thần đông vô số, nào thần rồng, thần rắn, thần rùa, các chư thần này có bổn phận biến chuyển nước và không khí. Còn riêng Đại thần tức thần Long Vương lo hộ trì Phật Pháp các nơi như: Chùa, tháp, những nơi có xá lợi, có tượng Phật, có kinh pháp và hộ trì các vị đại đức tăng ni tu hành chánh pháp, nghiêm trì giới luật. Các Long thần cũng hộ trì cư sĩ giữ tròn năm giới. Người đời gọi là ông tiên hay Long thần chớ thật là Đại thần Long Vương.
Cảnh Long Vương to tát hơn cảnh Địa Tiên, nhưng vì các hang gió, hang nước, hang không khí choáng mất đi nhiều.
Tôi cùng chư thần vào yết kiến Đức Long Vương ngài vô cùng mừng rỡ bèn cho sứ giả thỉnh Hoàng Hậu đến để hướng dẫn tôi dạo cảnh.
Cảnh Long Vương vô cùng xinh đẹp chẳng thua gì cảnh Địa Tiên, trăm hoa đua nở đủ màu sắc, rồng chầu, hổ phục khắp nơi. Hoàng hậu dẫn tôi đi ngay vào cung điện của các vị Công chúa. Một vị Công chúa hiện bị đọa ở cõi Diêm phù còn 4 vị nữa điều đi tu. Cung điện rất to lớn nguy nga, châu ngọc sáng lòe, nào quạt ngọc, chiếu ngà, bình báu đủ loại, cung nữ hằng ngày vẫn còn lo săn sóc cung điện. Bốn vị đi tu nhưng thỉnh thoảng còn trở về thăm cung điện, còn riêng vị bị đọa ở cõi Diêm phù thì bịt đường không còn lui tới. Vì Đức Long Vương sợ con ngài đắm đuối cõi trần không chịu tu hành làm sao trở về ngôi cũ thì ngài sẽ hổ thẹn với trăm quan cùng mười vua thập điện. Bởi cớ ấy nên Hoàng Hậu hết sức thiết tha yêu cầu tôi cố gắng độ cho Công chúa tu hành.
Hoàng Hậu cùng tôi ra khỏi cung điện, đến bãi Rồng, Rồng lớn có, nhỏ có đủ màu sắc rất oai nghi. Nhìn một lúc bắt rùng mình, sợ quá tôi bạch cùng Hoàng Hậu xin đi nơi khác. Dọc theo bãi cát không biết bao nhiêu là rùa, con nào con nấy bằng chiếc xe hơi, nào là kỳ đà, cua biển cỡ chiếc xe bò. Hoàng Hậu dẫn tôi đến một cái hồ rộng lớn chung quanh cây cối um tùm. Dưới hồ nhiều loại cá đủ màu, Hoàng Hậu cất tiếng bảo: "Các ngươi lội cho Hiền Tăng xem". Tự nhiên thấy cá gom lại màu nào theo màu nấy, mỗi màu thành một đoàn, đoàn này nối tiếp đoàn kia có hàng lối chỉnh tề trông rất đep mắt, như đoàn quân diễn hành tong ngày đại lễ. Mặt nước đang phẳng lặng bỗng dợn sóng ào ào. Khi chúng đua giáp vòng trở lại, chúng vọt mình lên khỏi mặt nước như reo vui chào đón.
Hoàng Hậu bảo:
Các ngươi tiếp tục diễn đi.
Tiếng Hoàng Hậu vừa dứt, thấy chúng lội đứng kết nhau thành vòng tròn, mỗi vòng một màu riêng biệt, kế những vòng tròn chuyển động, vòng sắc này lẫn lộn với vòng sắc khác như một đóa hoa khổng lồ trăm màu lẫn lộn. Thấy vậy tôi hết lời khen và nói: "Bạch Hoàng Hậu! Còn kiểu nào nữa bảo chúng làm luôn cho vui mắt". Ngài bảo: "Các ngươi quạt nước cho êm". Bầy cá liền nằm nghiêng trên mặt nước, con này nối đuôi con kia có dọc có hàng ngay ngắn như vải lụa đủ màu dài vô tận. Xem hoài không biết chán, thật công phu tập luyện rất nhiều, nay nhắc lại mà lòng còn vui thích. Kế Hoàng Hậu cho chúng nghỉ, chúng bèn lội lộn lại đủ màu, Hoàng Hậu phán:
Số cá này bắt ở biển đem về đây hàng ngày chư thần đến huấn luyện tập tành chúng, rồi tụng kinh chú nguyện cho chúng nó, dạy chúng nó lần đầu trong thời gian ba trăm sáu chục năm, lúc ấy cho chúng nó uống nước cam lồ rồi đọc chú thì chúng hóa thân người. Khi đã được thành người đem giáo pháp của Phật mà dạy chúng tu hành, đồng thời dạy về pháp hộ trì, đằng vân giá vỏ, khi chúng thông thuộc rồi mới cho đi độ đời đặng đắp bồi công đức. Lớp nào giỏi thì cho đi hộ trì Phật Pháp, số nào kém thì chuyển qua thần cây, thần nông, thần gió, thần nước, thần lửa...
Hễ lớp này tiến hóa lên thì bắt lớp cá khác vào hồ mà dạy nữa. Vì thế từ xưa đến nay cõi Long Vương này đào tạo không biết bao nhiêu Thần để đọ chúng sanh ở cõi Diêm Phù. Một số thần có bổn phận ghi chép điều ác, số khác ghi thiện. Một số hộ trì những vị tu hành và quan sát việc hành đạo của từng người như hàng ngày tụng kinh? Được bao nhiêu? Tu giờ nào? Nghỉ giờ nào? Niệm Phật lúc nào? Được bao nhiêu? Có nghiêm trì với luật hay không? Giữ tròn được giới đạo? Phạm giới nào rồi ghi vào sổ hàng tháng về tâu Thượng Đế. Chư thần ở cõi Diêm Phù tính ra còn đông hơn chúng sanh ở cõi ấy, nếu vị nào tu hành tinh tấn, tham thiền nhật định thì mắt thấy chư thần rõ ràng, như thấy vật ban ngày. Sở dĩ chúng sanh không nhìn thấy được chư thần vì bị sắc, tài, danh lợi làm mê mờ chơn tánh.
Hoàng Hậu phán xong tôi liền từ giã đoàn cá và khuyên chúng tu hành, bỗng chúng ngóc đầu lên khỏi mặt nước và đồng thanh niệm: " Nam mô Thường Tinh Tấn Bồ Tát" ba lần, làm tôi giật mình không ngờ lòai cá mà nói được, thật là lạ lùng! Làm Hòang Hậu cười xòa. Tôi thấy chúng khôn ngoan như vậy bèn dừng lại chú nguyện và Quy Y Phật, Pháp, Tăng cho chúng, trong lúc tôi quy cho chúng thấy chúng nghiêng đầu niệm Phật làm tôi cảm động vô cùng. Hoàng Hậu dẫn tôi đến một ngọn núi sáng rực hào quang tua tủa, tôi bèn hỏi:
Bạch Hoàng Hậu đó là núi chi vậy?
Hoàng Hậu đáp:
Không phải là núi mà chính là kho châu vật.
Vì vua Long Vương được chiếu chỉ của Thượng Đế phải cho thần quan sát lượm châu ngọc trong bể cá về chứa tại đây chớ lịnh Thượng Đế đem về bỏ đất Mõ thì ở cõi Diêm Phù, nay đã hơn sáu trăm năm rồi mà chưa được lịnh nên chư thần cứ tiếp tục lượm hoài. Nhưng kho này nhỏ hơn kho báu ở cõi Địa Tiên, chắc Hiền tăng đã được thấy. Kế Hoàng Hậu phán tiếp: "Khi Hiền Tăng trở lại cõi Diêm Phù khuyên chúng sanh ráng lo tu hành trong thời gian chẳng bao lâu nữa thì được hưởng của này. Bây giờ đừng tham ác làm chi mà gây tội lỗi sa vào Địa Ngục ngàn năm".
Tôi bèn hỏi:
- Bạch ngài chừng nào chúng sanh ở cõi Diêm Phù mới được hưởng của này?
Ngài bảo:
- Cơ Trời chẳng khá nói nhiều, đến năm Quý dậu thì thành công.
Nghe vậy tôi không hỏi nữa, Ngài bèn dẫn tôi đi chung quanh kho báu, tôi thấy nào là sư tử, cọp, rắn, kỳ đà, sấu và nhiều loại thú khác nữa to lớn có sừng, có nanh trôn rất ghê sợ mà tôi không biết tên chi. Con nào con nấy quá lớn làm tôi rùng mình rởn óc, nhưng nhìn lại thấy chúng hiền lành tôi cũng vững tâm. Mỗi khi Hoàng Hậu và tôi đi ngang qua con nào thì chúng đứng lên hai chân trước chắp lại, đầu gục gặc như xá chào, miệng niệm:
Mô Phật, mô Phật!
Tôi lấy làm lạ mà hỏi:
Nơi đây là cảnh thanh tịnh sao có thú quá nhiều?
Ngài đáp:
Đó cũng là sự tiến hóa lần lần, lớp này tiến lên làm người thì lớp khác tiến lên làm thú luôn luôn tiếp nối như vậy.
Tôi thấy lớp thú này khôn ngoan nên cũng dừng chân chú nguyện và quy y Phật Pháp Tăng cho chúng nó và khuyên chúng tinh tấn tu hành đặng sau này tiến lên làm người mà tu nữa.
Đến đó Hoàng Hậu đưa tôi về đến rồng vua Long Vương. Đức Long Vương từ trên ngai vàng bước xuống niềm nở đón chào, kế ngài phán cho trăm quan ra khỏi đền rồng truyền lệnh cho bốn vị Long thần đảo vô cho tôi xem.
Được lệnh bốn vị Long thần hiện hình rồng to lớn vọt thẳng lên mây múa lộn xem thật là đẹp mắt. Ban đầu còn thấy mình rồng rõ ràng lần lần không còn thấy nữa mà chỉ thấy như một cuộn mây lớn chuyển vận lộn nhào tới lui. Lúc ấy giông gió ào ào sóng biển trào lên có cuộn trong thật kinh thiên động địa. Các vị khác đứng xem vững vàng còn riêng tôi như muốn quay cuồng theo gió bèn hạ xuống bàn cẩm thạch mà ngồi nhưng lòng còn hãi hùng khiếp sợ không dám nhìn nữa. Thấy tôi như vậy đức Long Vương bèn truyền lệnh cho Lonh Thần ngưng đão võ. Ngài cùng Hoàng Hậu và trăm quan đưa tôi ra tận mé biển để trở lại cõi Diêm phù. Đây là sơ lược cảnh Long Vương.
Cõi Tứ Thiên Vương
Trong lúc khám phá mười ngục cùng ngục Vô gián, và trong lúc viếng cảnh Địa Tiên, Nhơn hiền cùng cảnh Long Vương, tôi cũng có chú ý tìm mẹ tôi nhưng không gặp, tôi bèn đến Nhất điện Tần Quảng Vương mà bạch:
- Bạch ngài! Tôi có người mẹ tên là Lê Thị Thêm chết ngày 18 tháng 10 năm Tý, đến nay cũng gần mãn tang, tôi cố ý kiếm tìm nhưng không gặp, xin ngài từ bi chỉ dạy cho tôi biết mẹ tôi hiện nay ở đâu?
Nhất điện Tần Quảng Vương phán:
- Cũng nhờ Hiền tăng có lòng chí hiếu, thọ trì kinh Địa Tạng hồi hướng cầu nguyện cho mẹ, nên thân mẫu của Hiền Tăng được về cõi Trời Tứ Thiên Vương hưởng phước mà cữu huyền thái tổ cũng được siêu sanh.
Nghe vậy tôi bèn quỳ xuống bạch:
- Bạch ngài! Tôi có thể về cõi trời Tứ Thiên Vương để tìm mẹ cho thỏa lòng ao ước được không?
Ngài phán:
- Quý thay! Nếu Hiền Tăng muốn đi tìm mẹ thì phải chí tâm cầu nguyện, chừng nào ơn trên ứng chứng mới được đi.
Được Nhất điện Tần Quảng Vương dạy bảo, tôi từ giả ngài để trở về cõi Diêm phù.
Chư thần đưa tôi về đến ngôi gia thì tôi nhập xác, hàng ngày tôi chí tâm cầu nguyện được về cõi Trời Tứ Thiên Vương tìm mẹ. Tôi nguyện như vậy trong thời gian ba tháng. Đến ngày 9 tháng giêng năm Mẹo. Thượng Đế Tứ Thiên Vương phê chiếu chỉ cho chư thần xuống trục hồi tôi ra khỏi xác rồi dẫn hồn tôi về thăm mẹ.
Chư thần dìu tôi bay lên mây đi được một lúc lâu nhìn xuống thấy núi non trùng điệp, đi một lúc nữa chỉ thấy mây đủ màu sắc rất đẹp mà không thấy chi nữa. Nhìn mặt trời thấy to lớn quá, các ngôi sao cũng thật lớn. Tôi định bụng chắc tại nơi đây gần mặt trời và các vì sao hơn cõi thế nên mình thấy lớn. đi một lúc lâu gặp một số Thánh thần đang đứng trên mây, các chư thần dẫn tôi đến trình chiếu chỉ. Các vị này cho đi qua và lấy làm hoan hỉ lắm.
Tôi được các vị thần cho biết đó là cửa Trời, nhưng tôi nhìn lại không thấy cửa nẽo thành trì chi hết mà chỉ thấy khoảng không mây phủ lớp lớp. Đi một lúc nữa thấy cảnh trí trang nghêm xinh đẹp hiện ra thật vô cùng rực rỡ, cây cối ngay hàng, lâu đài uy nghiêm lố nhố. Chứ thần cùng tôi hạ xuống lại trình chiếu chỉ lại một lần nữa rồi bay thẳng đến đền Rồng của Tứ Thiên Vương. Một đền Rồng to tát hiện ra, chung quanh đền đài lớp lớp đồ sộ uy nghiêm đẹp đẽ vô cùng, ánh sang đủ màu trong các đền đài tua tủa chiếu ra như ánh đèn ban đêm nơi đô thị. Nhưng ánh sang ở đây mát mẽ và suốt thấu tận các tầng mây. Mùi hương lạ ngạt ngào làm tâm hồn tôi nửa say nửa tỉnh, tiếng nhạc trời du dương trằm bổng văng vẳng từ xa vọng lại, thật cảnh thiên đường vui đẹp không cùng. Trước đền rồng có rồng chầu, hổ phục, long, lân, qui, phụng đứng có hàng. Những con vật này vừa to vừa đẹp nhiều màu sắc khác lạ cõi đời, chúng thỉnh thoảng rùng mình uốn khúc, con rờ râu mép, con vẫy đuôi múa, xem vẽ ung dung nhàn hạ lắm.
Khi tôi cùng chư thần vào, chúng đồng đứng dậy đón chào. Bước vào trong tôi thấy đền rồng cao vòi vọi rộng lớn vô cùng, xây cất bằng châu báu. Người ở đây sao to lớn quá, thân tôi sánh với người cõi Trời chẳng khác nào con cóc sánh với người ở thế gian, thấy mình bé nhỏ lòng hơi khiếp sợ. Được chư thần cho biết vị Trời chánh đế cao hai mươi bốn thước, mặt y đỏ, mão đỏ, hia đỏ: Vị Trời thường cao mười hai thước, mặt áo trắng, mão trắng, hia trắng. Vị đại Tiên cao mười sáu thước. Người Tiên đẹp hơn người Trời nhưng dưới quyền Trời chánh đế. Còn các vị tiên nhỏ màu sắc đủ lọai, tùy theo cấp bậc về công đức tu hành (Tuy cao nhưng đồng thanh đồng thủ).
Thẳng vào chánh điện xa xa, một vị to lớn mặc đồ đỏ đang ngự giữa, tôi biết ngay là Trời Tứ Thiên Vương bèn cùng chư thần tiến vào bái yết tung hô (tôi đã được chư thần dạy trước). Yết kiến xong Tứ Thiên Vương phán cho ngồi, tiếng ngài sang sảng như tiếng chuông đồng, kế ngài phán:
Hiền Tăng tuy người trọng tội, nhờ lời đại nguyện phá xong mười ngục cứu độ chúng sanh cũng nhiều, đức kia rất lớn. Nay vì lòng hiếu thảo cầu xin về trời gặp mẹ trẩm cũng rộng hồng ân. Hơn nữa, trẫm cũng muốn cho Hiền tăng về trời cho biết, sau nói lại cho chúng sanh nghe đặng chúng biết có Trời, có Phật, có Thánh, có Thần, để chúng sanh khỏi lầm tưởng ngoài cõi đời không còn ai nữa rồi mặc tình làm ác mà phải sa vào địa ngục.
Nay trẫm phán đôi lời cho Hiền Tăng rõ: Chúng sanh ở cõi Diêm Phù lòng tham ác dẫy đầy, nghiệp sát sanh quá nặng, cho nên chiến tranh khói lửa không ngừng. Đã thế còn loạn dâm, hủy đạo, ngổ nghịch, bất hiếu, bất trung, mở miệng ra là cống cao ngạo mạn, chửi Trời mắng đất, khi dễ Thánh Thấn. Hàng tháng chư thần về tâu tội lỗi của chúng sanh tràn ngập, còn người thiện về cõi khác rồi cho thần lôi thần hỏa tiêu hủy thế gian đặng lập lại đời thượng cổ cho người hiền chung hưởng. Nhưng đức Quán Âm vì lòng từ bi đã bao lần ngăn cản để ngài tìm cách cứu độ chúng sanh, nếu làm như vậy thì chúng sanh chết khổ tội nghiệp.
Cũng may, hiện nay nhiều vị Bồ tát ở cõi Trời Đâu suất vì lòng độ tha nên đã giáng trần độ thế rất nhiều. Nhờ các vị Bồ Tát giảng thuyết Kinh pháp nên chúng sanh biết đường tu tỉnh, ăn chay, niệm Phật, thọ trì Kinh pháp. Trẫm phán cho Hiền Tăng rõ: "Người nào giữ trọn tam quy ngũ giới, khi chết trẫm cho kim đồng ngọc nữ rước về cõi trời Tứ Thiên Vương này hưởng phước tu thêm. Còn từ năm giới tới mười giới thì được về các cõi Trời trên, hoặc về cõi Trời Đâu suất gặp Đức Phật Di Lặc giáo hóa tu thêm. Riêng những vị Tăng Ni Đại Đức khi bổn nguyện đã viên mãn thì về ngay cõi Cực lạc của Đức Phật A Di Đà. Còn những người vào hàng Phật Tử mà phá đạo, hại đời hoặc đã xuất gia thọ giới mà phá giới, phạm trai hoặc loạn dâm, đắm sắc khi chết bị đọa vào địa ngục không biết bao nhiêu năm để đền tội.
Còn những vị mặc dầu ở tại gia nhưng một lòng vì đạo, kiến thiết chùa chiền, in kinh ấn tống, ủng hộ tăng ni tu học, đó là hàng Bồ Tát tại gia. Phước báo này đến chổ vô lậu, cứ tô bồi công đức như vậy lần lần đến quả vị Niết Bàn. Vì ủng hộ tăng ni tức bảo tồn tăng bảo thường trụ. Thay mặt đức Như Lai giáo hóa chúng sanh. In kinh ấn tống là bảo tồn pháp bảo thường trụ ở thế gian để chúng sanh nương theo kinh pháp mà tu hành. Tuy nhiên, những vị tu bồi công đức trên phải luôn luôn khiêm nhường, đừng sanh tâm cống cao ngạo mạng mà tiêu mòn phước báu đi rất uổng.
Tất cả các Đức Phật đều muốn cho chúng sanh về đất Phật, tất cả các cõi trời đều muốn cho chúng sanh đặng về trời. Thế mà chúng sanh cứ mà làm ác, lao đầu vào địa ngục, thật là mê muội. Tuy biết rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tánh Phật ấy như hột giống vậy. Hột giống này phải được trồng trong đất đạo đức, hàng ngày phải được vun tước bằng pháp của Phật thì hột mới nẩy mầm lên cây, đơm bông kết trái Phật, tức thành Phật. Chớ như mê muội đem hột giống bỏ vào sình lầy tham ác, bỏ vào lửa đỏ bạo tàn, ngang ngược thì mọng thúi, hoặc ra tro, cuối cùng thành súc sanh ngạ quỷ chịu thống khổ nuôn đời. Trẫm phán bấy nhiêu lời Hiền Tăng cố nhớ về nói lại cho chúng sanh nghe".
Phán xong Ngài cho hai vị Tiên nữ gọi mẹ tôi đến, sau khi bái yết tung hô xong mẹ của tôi được tự tiện hàn huyên.
Tôi không nhìn được mẹ tôi vì bà cao lớn và xinh đẹp quá, nhưng nhờ tiếng nói không đổi nên tôi nhận ra. Còn mẹ tôi vừa thấy tôi bà mừng quá chạy lại ôm tôi bà nói: "Ủa Nhi, (vì tôi tên Nhi) con cũng được về trời nữa sao, vậy thì tâu tới tứ Thiên Vương cho mẹ con mình ở chung một chỗ để cùng tu hành. Nhi ạ! ở cõi trời vui lắm, các vị Bồ Tát ở cõi trời Đâu suất thường xuống đây thuyết pháp, hào quang các ngài sáng ánh tua tủa, ban đầu mẹ tưởng là Phật, mẹ mừng quá, mẹ lạy hoài không thôi, sau nhờ các vị Tiên nói mẹ mới biết là Bồ Tát. Mẹ nhờ con biết tu hành cầu siêu cho mẹ mới được về trời, thật con có hiếu với mẹ quá, bằng không mẹ còn khổ nữa biết ngày nào được ở đây.
Mẹ ở tận núi Hoa, chổ mẹ ở đẹp hơn đây nhiều lắm, một ngày ở đây dài lắm mẹ nghe các vị Tiên cho biết bằn gmột năm ở cõi thế. Lúc mẹ chết thằng Thinh (vì em tôi tên Thinh) làm một con bò va một con heo để làm đám ma, nếu không có con cầu siêu cho chúng nó hóa thân làm người thì mẹ phải đầu thai một kiếp làm bò và một kiếp làm heo để đền mạng. Ôi! Khổ biết bao nhiêu, thằng Thinh ngu quá nó tưởng làm như vậy là báo hiếu cho mẹ, nào ngờ nó làm hại mẹ phải làm súc sanh thật là đâu đớn. Nhưng việc đã qua rồi không nhắc lại làm chi, con hãy tâu với Tứ Thiên Vương xin về ở chung với mẹ đi, ở đây tu hành vui lắm, khỏi phải làm lụng gì hết.
Mẹ con mình ráng tu rồi sẽ được trở về cõi Trời đầu suất, mẹ nghe các vị Tiên nói ở Trời Đâu suất có Phật Di Lạc, nhờ ngài giáo hóa mình tu thêm sau một thời gian lâu mới về được cõi cực lạc của Đức Phật A Di Đà. Nè! Con thấy mẹ không, lúc này mẹ đẹp lắm phải không! Hồi mẹ mới về trời cũng giống như con ngày nay thật là nhỏ nhoi xấu xí quá chừng, thôi con đừng buồn, ở đây ít lâu rồi cũng lớn đẹp như mẹ vậy. Con ạ! Ở đây cúng dường lạ lắm, hễ tâm mình muống cúng dường vị Bồ Tát đang thuyết pháp loại hoa nào tự nhiên loại hoa ấy từ trên hư không đổ xuống tua tủa như mưa thật là vui. Mới về cõi Trời mẹ tâm tưởng để cúng dường như vậy chưa được, phải tu một thời gian sau mẹ mới cúng dường bằng cách tâm tưởng sang hoa.
Cõi Trời vui lắm, để rồi con thấy mẹ không nói sai đâu. Lúc mẹ còn sống thường mở máy thâu thanh để nghe và thích nhất tuồng hát bội, nhưng ở đây các vị Tiên nữ múa hát hay gấp bội lần, còn trên hư không nhạc trời tự nhiên trỗi thật hay mẹ nóikhông hết được. Thôi con đến xin cùng tứ Thiên Vương cho mẹ con mình ở chung rồi con sẽ thấy lời mẹ nói thật, còn nữa, còn nhiều chuyện lạ nữa, đến xin đi con". Bà nói huyên thuyên không ngừng nghỉ, vì lòng phàm còn nặng nên khi thấy mẹ tôi vui mừng kể lễ làm tôi mủi lòng nước mắt dầm dề.
Chư thần bèn cho mẹ tôi biết là tôi chưa chết vì lòng hiếu thảo muốn tìm mẹ mà thôi.
Vừa lúc ấy Tứ Thiên Vương phê chiếu chỉ cho phép tôi được dạo cảnh trời, tôi cùng chư thần yết kiến Tứ Thiên Vương rồi ra khỏi đền Rồng để dạo cảnh. Cảnh trời đẹp hơn cảnh Địa Tiên rất nhiều, tiếng gió thổi, chim kêu man mác nhẹ nhàng tưởng chừng như cảnh Tây Phương. Các vị Tiên cõi lạc, cõi công bay lơ lững trên không. Tiếng ống tiêu, ống sáo nghe thâm trầm, các loại chim hạt, chim công, chim quy cùng nhiều loại chim khác nữa mà tôi không biết tên đang nhảy múa ca hát tiếng cười, làm tôi ngây ngất tâm hồn, không muốn trở lại cõi trần đầy đâu khổ.
Các vị Tiên nữ từng nhóm, từng đoàn đủ màu sặc sở đang tung tăng múa hát. Cỏ hoa xinh đẹp nhiều đóa hoa to lớn như cái mâm mùi thơm bát ngát, cây cối đầy đàn thẳng tấp, thân cây trong sáng hoa quả đặc cành, không một gợi bụi không một chiếc lá rơi, không một cành cỏ dại, đất như pha lê cẩm thạch. Lầu ngà tháp ngọc vòi vọi tận mây, gió hây hây thổi mang hương thơm ngào ngạt hòa lẩn với tiếng sáo du dương, tiếng chim ca hát, tiếng lãnh lót của các vị tiên nữ làm tâm hồn tôi ngây ngất muốn bay bổng lên tận hư không. Nghĩ lại cảnh đời đua chen xô xát mà ngán ngẩm, nghĩ đến chiến tranh ly loạn ở cõi đời mà tê tái cõi lòng. Tôi hết muốn trở lại trần gian, nhưng nhớ đến lời đại nguyện tôi nhất quyết phải trở lại cảnh diêm phù. Trước là trả xong nghiệp quả, sau cho trọn lời đại nguyện, rồi tôi từ giã mẹ tôi để trở lại đền Rồng tâu cùng Tứ Thiên Vương phê chiếu chỉ cho tôi trở về cõi thế.
Đến nơi Tứ Thiên Vương phán: "Tuy cõi trời rộng bao la, tốt đẹp vô ngần, các vị Bồ Tát ở cõi trời Đâu suất thường đến thuyết pháp dạy đạo, song chúng tiên cứ mãi say sưa trong cảnh đẹp ít chịu tu hành. Nay trẫm thỉnh Hiền Tăng đến pháp đài giảng cho chúng tiên một thời pháp về cái khổ ở thế gian và nơi địa gục, đặng chúng tiên sanh tâm lo sợ mà tinh tấn tu hành, kẻo chúng tiên cứ mãi vui chơi đến ngày hết thuốc bị đọa lại trần gian thì tội lắm! Hiền Tăng đến ngay tháp đài ở núi hoa, tháp này có mười tám tầng dành cho các vị Bồ Tát đến thuyết pháp, nhưng khi đến nơi Hiền Tăng chỉ ngồi ở tầng thứ mười thuyết một thời pháp cho chúng tiên nghe". Được lệnh chư thần đưa tôi bay đến tháp đài. Tháp này cao vòi vọi. Không biết xây bằng thứ gì mà trong sáng lạ thường. Chung quanh tháp đài một khoảng trống mênh mông mặt đất như vàng ròng. Tôi đến ngồi ở tầng thứ mười thấy các vị tiên bốn phía từng đoàn, từng lũ đằng vân về tháp đông đảo như ngày hội.
Sau các vị Tiên ngồi theo thứ lớp, tôi nhìn xuống thấy thật có thứ tự màu áo nào ngồi theo nhóm nấy không xen lẫn lộn. Hết lớp này đến lớp khác đều đặng trang nghiêm.
Tôi bèn cất tiếng giảng về những điều khổ ở thế gian: (Ở đây tôi xin tóm lược nhựng điểm cốt yếu) nào cái khổ còn từ trong bào thai tối đen ngộp thở, nào cái khổ từ lúc mới sinh ra dại khờ ngu tối, yếu đuối sống nhờ nơi cha mẹ, nào cái khổ khi lớn lên tạo lập gia đình, lam lũ nhọc nhằn, đổ mồ hô, sôi nước mắt mới có miếng ăn, áo mặc, nhà ở. Nào những lúc bệnh tật ốm đau dày vò, nào những lúc già yếu, chân mỏi, da dùn, mắt lờ, tai điếc. Nào khi chết bức khổ than tâm. Còn bao nhiêu cái khổ thiên tai, hỏa hoạn, cái khổ về chiến tranh tàn phá, chết chóc, đến những cái khổ về tù đày, sanh ly tử biệt. Kế tôi nói về sự đâu khổ ở địa ngục.
Lúc ấy tôi thấy các vị Tiên nơm nớp lo sợ. Sau khi tôi giảng xong các vị Tiên tụ tập từng nhóm bàn tán với nhau, thấy vậy tôi bèn lân la với các vị Tiên, các ngài nói: "Nếu không có Hiền Tăng nói rõ về cảnh khổ ở thế gian chúng tôi đâu biết. Chúng tôi tưởng ở thế gian cũng sung sướng như ở cõi nầy nào ngờ khổ quá.
Chúng tôi ở đây nào có nghĩ tới năm tháng nào có thấy ai già, ai chết bao giờ, hễ bị tội là Thượng Đế đọa xuống trần gian, nhưng tưởng là đi du ngoạn một lúc vậy thôi nào ngờ khổ quá. Các vị Bồ Tát thường đến đây thuyết pháp mà chúng tôi nào có tin lời. Còn Hiền Tăng từ cõi thế lên đây nói rõ cảnh đời khổ sở làm chúng tôi thức tỉnh. Thôi chúng tôi bắt đầu tu theo Phật kẻo bị đọa xuống trần gian khổ lắm chịu sao cho nổi.
Một vị khác tiếp: "Thỉnh thoảng Hiền Tăng lên đây một lần nhắc nhở chúng Tiên tu hành tinh tấn chớ các chư thần thường xuống cõi Diêm phù quan sát về nói lại lắm lúc chúng Tiên cũng chẳng mấy làm tin lắm".
Tôi bèn cáo biệt các vị Tiên, trở lại đền rồng lãnh chiếu chỉ trở về dương thế.
Đến nơi tôi bái yết xong, Tứ Thiên Vương phán: "Hôm nay Hiền Tăng đã toại nguyện khi trở về khi trở về cõi Diêm phù nhắc nhở chúng sanh tin tấn tu hành, cảnh đẹp ở cõi trời rất rộng đang chờ đón chúng sanh tu thiện. Hiền Tăng nhắc nhở chúng sanh đừng đắm đuối theo xác thân giả tạm, thời gian nó cũng tiêu hoại, phải lo phần hồn là cái chắc thật lâu dài, phải nuôi phần hồn bằng giáo pháp của Phật, phải biết quên mình vì kẻ khác đửng ích kỷ thì cửa trời đang mở rộng đón chờ".
Phán xong ngài phê chiếu chỉ cho chư thần đưa tôi về cõi thế.
Mô Phật, đây là lời sơ lược về cảnh trời Tứ Thiên Vương, nếu nói cho hết thì chẳng cùng, hơn nữa tôi chỉ đằng vân ở trên đi lướt qua các cảnh chớ không có thời giờ quan sát tỉ mỉ từng chi tiết một, và ở cõi trời nhiều vật đẹp lạ mà thế gian không có nên tôi cũng không biết gọi là gì.
Cõi trời là cõi thật, muôn đời nghìn kiếp chẳng đổi thay, nơi thánh nhân đầy đủ phước duyên hưởng thọ, trí phàm như tôi không sao tả cho tường tận được. Nếu chư vị Phật tử nào còn nghi ngờ điều chi trong quyển này xin đến Liên Hoa tịnh thất Mỹ Tho chúng tôi vui lòng hầu chuyện cùng quý vị.
Chúng tôi nguyện đem công đức này hồi hướng cho tất cả pháp giới chúng sanh đồng quay về bờ giác.
Viết xong ngày 28-11-1971
Nhằm ngày 11 tháng 10 năm Tân Hợi
Thích nữ Huệ Hiền Kính bút
Hôm nay tôi xin tiếp tục thuật những cảnh trí thanh tịnh mà tôi đến, tận nơi, mắt thấy, tai nghe một cách tường tận (chỗ nào tôi xin nói rõ là chư thần trục hồn và đưa tôi đi, còn xác tôi thì nằm thiêm thiếp ở nhà như người sắp chết).
Trước khi thuật lại những cảnh thanh tịnh đẹp đẽ này, tôi xin nói rõ lý do mà tôi được đến. Nguyên trước kia tôi là người tội lỗi, nên phải chịu trả nghiệp (xem quyển Địa ngục ký thì rõ), sau khi đã đến tội và nhờ lời đại nguyện, tôi phá xong mười cửa ngục và ngục vô gián. Để khuyến khích tôi tinh tấn trên đường tu hành, và cũng để sau này tôi thuật lại cho đời nghe mà thêm lòng tin vững chắc. Cho nên Nhất điện Tần Quảng Vương phê chiếu chỉ cho tôi được viếng cảnh Địa Tiên, Nhơn Hiền và cảnh Long Vương trước khi về cõi thế.
Sau khi lãnh chiếu chỉ, chư thần đỡ tôi bay bỗng lên mây. Từ cảnh Địa ngục qua cảnh Địa tiên phải vượt qua biển mênh mông chỉ nhìn thấy mây và nước.
Đến nơi chư thần đáp xuống nhìn quang cảnh trí thật là xinh đẹp tưởng như cảnh trời nào vậy. Con người ở đây xinh đẹp và to lớn lạ thường. Khác hẳn người Dương thế nhỏ nhít xấu xa.
Người ở đây (phải gọi là Tiên mới đúng) không già, không chết, không bệnh tật, ốm đâu, sống với thiên nhiên, khỏi phải làm lụng nhọc nhằn vất vã, khỏi bận đến cơm ăn, áo mặc, chỗ ở chi hết. Hàng ngày chỉ lo tu hành, luân lạc nghe thuyết pháp, người tu trước dạy người tu sau, người lớn dạy người nhỏ tiếp tục truyền như vậy. Ngoài ra chỉ ngao du ngoạn cảnh, lượm ngọc, thưởng hoa. Nơi đâycó một kho báu rấy lớn không bút nào tả hết được. Ở giữa ngọc chất cao như núi, nhỏ có, lớn có, đủ màu sắc chiếu lên sáng rực một vòm trời, ngọn núi ngọc này được bao bọc bởi một dãy núi vàng, ngoài là dãy núi bạc bao bọc núi vàng như thành trì kiên cố. Tôi nghĩ bụng: "Ở đây châu ngọc chất thành núi mà chẳng ai dùng, còn ở cõi trần chỉ vì một viên ngọc nhỏ mà làm cho con người sanh tâm ác độc đến chỗ giết hại lẫn nhau thật là mê muội".
Thấy chúng tôi đằng vân vừa đến, các vị Đại Tiên ở đây ra chào mừng tiếp rước, các ngài tưởng tôi là người ở cõi đã tạo nhiều công đức với đời sau khi mãn số được đắc quả về đây. Lúc ấy chư thần theo tôi đến trình chiếu chỉ của Nhất Điện Tần Quảng Vương, các vị Đại Tiên mới rõ tôi là người đi dạp cảnh và còn trở lại cõi Diêm phù.
Được biết thế các ngài còn tỏ ra ân cần trọng hậu, có vị Đại Tiên phán: "Từ xưa đến nay, nào có ai chết đi mà sống lại, để thuật lại cho chúng sanh biết còn nhiều cõi đẹp đẽ vững chắc muôn đời, vì thế chúng sanh ở cõi Diêm phù sống trong giả cảnh khổ đau mà nào có biết chi chi thật là tội nghiệp. Chúng mê muội quay cuồng trong giả cảnh, và ngoài giả cảnh ấy còn bao nhiêu thật cảnh tốt đẹp đạo đức đời đời. Nơi đây, nơi đây không phải khổ vì sanh, già, bệnh, chết; Không phải khổ vì thiên tai, hỏa hoạn, không phải khổ vì chiến tranh, chết chóc, không phải khổ vì đói rét bức thân. Chứng ấy chúng sanh không bám níu giả cảnh nữa mà đi tìm cảnh thật hạnh phúc này.
Nhưng cũng may thay, nay hiền tăng đã đến đây rồi. Khi trở về cõi thế, tôi xin nhắn nhủ đôi lời với người phàm tục: "Ai cũng có chơn tánh Phật, phải ráng tu hành đặng về cảnh Phật, chớ cảnh Địa Tiên này còn thấp thỏi lắm. Cảnh này cũng còn là tạm, nơi để dìu dắt những bậc hiền nhơn nhưng còn kém phước về đương đạo. Chẳng hạn những người khi còn sống ở cõi thế trọn hiếu, trọn trung, hoặc trọng tiết mà không phạm tội sát sanh hại mạng, không hủy báng Tam Bảo khi chết được về cảnh Địa Tiên, hằng ngày lo học đạo tu thêm lần lần đắc quả về cõi Trời mà lo tu nữa. Như chúng tôi đây hằng ngày khuyên bảo nhau tu hành chớ không dám giải đãi sợ bị đọa trở lại cõi Diêm phù thì khó mà tìm con đường giải thoát. Chúng tôi đây vì biết đạo nên sợ tội lỗi mà tinh tấn tu hành, còn chúng sanh ở cõi Diêm phù bị sắc, tài, danh vọng ám ảnh chẳng khác nào con vật nhỏ bị nhốt trong cái tủ tối om, nào có hay biết gì ngoài cái tủ ấy cả một bầu trời bao la quang đãng. Chúng tôi xin hướng dẫn ngài đi dạo cảnh Đại Tiên khi trở về cõi thế thuật lại và khuyến khích chúng sanh ráng lo tu hành, nếu căn cơ còn kém tu không được thì cố ăn ở sao cho phải đạo làm người đừng sát sanh hại mạng hàng ngày tới lui Tam Bảo học đạo lần lần, khi chết chư thần sẽ đem về cảnh Địa Tiên này mà học đạo tu thêm".
Nói xong các ngài dẫn chúng tôi đi dạo cảnh. Tôi được biết vị tiên lớn nhất cai quản cõi Địa Tiên mặc áo đỏ râu vàng, chân mày bạc, cởi công. Các vị Tiên bậc trung thì mặc áo hồng hồng, y vàng lợt. Các vị tiên nhỏ thì mặc áo xanh, y trắng và không có râu. Chẳng hạn nam hay nữ ai ở động nào thì vào động đó, nói là động chớ thật ra uy nga như tháp to lớn ở cõi Diêm phù. Nhiều vị tiên ngồi thiền ở dưới những gốc cây to. Mặt đất ở đây như phalê cẩm thạch, trong sạch mát mẻ chớ không giống đất đá ở cõi Diêm phù. Nơi khác nhiều vị tiên đi kinh hành niệm Phật, nhiều chỗ ở các vị tiên tụng kinh như ở cõi Diêm phù.
Ở đây cây cối xum xuê tàn lá rậm rạp, trái đặc cây dùng không hết. Lạ một điều là trái nhiều hơn lá, phía dưới gốc cây không một trái rụng, không một chiếc lá rơi, mặt đất đâu đâu cũng bằng phẳng trong mát. Các vị tiên ở đây chỉ lo tu hành không bận tâm đến miếng ăn vật uống, mỗi tháng chỉ thọ thực 2 lần nhằm ngày 14 và ngày 30. Các vị tiên cho biết mỗi lần thọ thực như vậy no hoài không biết đói mà nghe trong thân khỏe khoắn nhẹ nhàng càng ngày càng lớn càng xinh đẹp, những người mới đắc quả mới về đây còn nhỏ nhít xấu xa nhưng vẫn đẹp hơn người cõi thế.
Các ngài dẫn tôi đi lần ra mé biển, bờ biển toàn là vàng có cục, có khối lăn lốc như đá cuội ở bờ biển cõi đời. Trên bãi biển nào cù, rồng, cua biển, rùa, rắn đủ màu sắc. Nếu chúng sanh ở cõi Diêm phù mà nhìn thấy chắc chết giấc. Một vị rồng bề dài chừng 300 thước, bề ngang độ 6 thước, một con rùa như chiếc xe hơi, con cua biển như xe bò. Dưới nước không biết bao nhiêu là cá đủ màu sắc. Cá có vẫy, cá có lông, cá có 4 mắt, cá có tay, cá có cánh, đó là chỉ nhìn sơ qua chớ không đủ thời giờ mà quan sát cho hết. Còn châu ngọc dưới biển cũng nhiều, chư tiên không có thời giờ để mà lượm, Lúc ấy có một vị tiên đi phăng phăng xuống biển, nước biển rẽ 2 bên thật là lạ, bỗng một luồng bạch quang từ dưới sẹt lên, vị tiên cuối xuống lượm lên một hột châu bèn dâng lên Đại Tiên, ngài dạy đem vào kho núi báu. Tôi thấy vậy bèn hỏi:
Bạch ngài, tại sao nơi đây không xài châu ngọc mà chứa thành núi để làm gì?
Vị tiên trả lời: Ở cõi đời này không xài châu ngọc nhưng Thượng Đế phê chiếu chỉ bảo các vị tiên ở đây phải lượm ngọc để dành, sau này đem về Mỏ thi ở cõi Diêm phù tại làng Kim Sơn mà xây thành núi báu cho chúng sanh ở cõi đó dùng. Từ ngày lãnh chiếu chỉ của Thượng Đế đến nay đã ngót 600 năm, hàng ngày chư tiên phải để ra một ít thời giờ để lượm châu ngọc trong các biển chứa nơi đây ngoài ra còn một ngọn núi báu ở cõi Long Vương nữa. Khi Hiền Tăng đến đó sẽ thấy, vì ngày giờ chưa đến nên chưa đem về xứ Mỏ Thi.
Nghe ngài nói vậy tôi bèn hỏi:
Bạch ngài: Châu ngọc này chừng nào đem về xứ Mỏ Thi, mà Mỏ Thi có phải là Mỹ Tho không ngài?
Vị tiên phán:
Ngày ấy không còn xa nữa, mà cũng chẳng gần, Hiền Tăng ráng tu sẽ thấy và ráng khuyên người đời đừng tham ác thì sau này mới hưởng được.
Kế vị Đại Tiên hướng dẫn tôi đi các nơi khác (nói là đi cho dễ hiểu, chớ thật ra bay như gió, chớ không phải bước từng bước như người cõi thế) nơi nào cũng mát mẽ xinh đẹp, đâu đâu cũng có hoa quả đầy đàng, tháp vàng, tháp ngọc hào quang sáng chói, thật trí phàm không sao nói hết được.
Dạo một đỗi vị Đại Tiên mời tôi cùng chư thần dự yến viên, vị Đại Tiên dẫn chúng tôi đến trung tâm, nơi đây lầu cát nguy nga giữa một vườn hoa rực rỡ, bỗng từ đâu bàn ghế mâm trái đầy dẫy, bình chung bằng châu ngọc để theo hàng, tôi lấy làm kinh ngạc bèn nghĩ bụng: "Người đời làm lụng vất vả mới tạo tác được thứ vật kia vật nọ, thế mà muôn vật có chi bền, rốt cuộc rồi cũng đều hư hoại, thân người rồi cũng già chết nào ai sống được trăm năm. Sao bằng nơi tiên cảnh ngày tháng tiêu dao vui thú trong cảnh nước non trăng gió, cảnh đẹp người xinh, không cần nhọc nhằn tạo tác mà muốn vật sẵn dùng, không già, không chết, sống mãi muôn đời thật là sung sướng biết bao". Vừa nghĩ thế nghe vị Đại Tiên mời tôi vào bàn dự tiệc, lúc ấy vị thần đi gần tôi bảo:
Mặc dầu vị Đại Tiên có lòng hậu đãi Hiền Tăng, nhưng Hiền Tăng đừng thọ thực vật này, vì Hiền Tăng còn trở lại cõi Diêm phù, nếu dùng của này khi Hiền Tăng trở về nhập xác no hoài không đói thì xác thân sẽ tiều tụy ốm đau làm sao tu hành được.
Lúc ấy vị Đại Tiên tiếp đãi rất trọng hậu, ngài mời mọc tôi đôi ba lần thấy nhiều trái lạ đủ màu sắc, mùi thơm ngào ngạt nhưng chỉ lấy mắt mà nhìn.
Thật ra tôi cũng muốn ăn thử một miếng cho biết, nhưng vì chư thần đã nói trước nên chẳng dám ăn. Trong lúc các vị tiên cùng chư thần vui vầy yến tiệc có một vị tiên tươi cười nói:
Tuy cảnh Địa Tiên này so với cõi Trời còn kém lắm, nhưng lấy cảnh Diêm phù mà sánh thì trăm phần không được một. Nơi cõi Diêm phù dù cho kinh thành hoa lệ tốt đẹp đến đâu cũng là giả tạo do đất đá cấu kết tạo thành. Còn nơi đây lầu cát toàn là châu ngọc, vì theo công đức tu hành cao thấp của các vị Tiên mà có lớn nhỏ xinh liïch khác nhau, cũng khỏi nhọc công xây cất, chỉ do tâm biến hóa tạo thành. Tiểu Tiên này trước kia cũng là người ở cõi Diêm phù, khi làm người, khi làm thú, khi tạo ác phải đọa vào Địa ngục đau khổ biết bao, đến khi đắc được quả tiên này nghỉ ra không biết trăm muôn ngàn kiếp phải chịu sanh tử luân hồi, sự khổ sở không bút mực nào tả hết. May nhờ được gặp minh sư dạy bảo tu hành, nhưng vì tu muộn phước ít nên chỉ đắc được quả tiên. Nay hồi tâm nghĩ lại bắt rùng mình rợn óc sợ cõi trần hơn nước sôi lửa đỏ.
Chúng sanh ở cõi Diêm phù sống say, chết ngủ, khi sống say mê danh lợi nào có lo học đạo tu tâm, khi chết thần thức mê mờ như người mê ngủ nào có biết chi chi, đành để cho nghiệp lực kéo lôi vào đường sanh tử. Chẳng khác nào như trẻ con theo mẹ nào có biết đi đâu và đến nơi nào thật là tội nghiệp. Khi Hiền tăng trở lại cõi Diêm phù, khuyên người đời ráng tu, dẩu chưa đủ phước duyên xuất gia đầu Phật vì còn phải làm việc để trả nợ đời phải tập tánh hiền lành, ăn ngay ở thật, hàng ngày tập ăn chay niệm Phật, khi chết cũng được về cảnh Địa Tiên này. Lúc ấy mới biết có trời, có Phật, có Thánh, có Thần, lúc ấy mắt, tai đều sáng mà nghe pháp tu hành. Chớ như chúng sanh ở cõi diêm phù có mắt như đui, có tai như điếc có thấy biết điều chi, Thánh Thần trước mắt nào có thấy, Pháp bảo vang dộinhư song gầm mà nào có nghe, chẳng qua vì bị trần cảnh nhận chìm, hố sâu danh lợi chôn lấp, tình luyến ái trói buộc khó lòng thoát khỏi. Ôi thôi! Sự mê mờ đau khổ của cuộc đời nói sao cho hết!.
Nghe ngài nói thế tôi ngậm ngùi chua xót cho đời và cũng cho chính mình. Sau khi yến tiệc mãn, tôi cùng chư thần kiếu các ngài để còn qua cảnh khác. đây là sơ lược cảnh Địa Tiên.
Cảnh Nhơn Hiền
Sau khi từ giã các vị Đại Tiên, chư thần dìu tôi đằng vân lên mây bay qua cảnh Nhơn Hiền. Cảnh này vẽ đẹp thua cảnh Địa Tiên, nhưng lâu đài nguy nga sang trọng mường tượng như kinh thành to lớn, nhưng các lâu đài này rời rạc uy nghiêm chớ không khít sát như thành phố cõi Diêm phù, người ở đây như bậc giàu sang ở cõi Diêm phù muốn chi có nấy, chỉ muốn là được chớ khỏi nhọc nhằn vất vả làm lụng chi cả. Người ở đây cũng không còn nạn khổ về sanh, già, bệnh, chết, hễ tu hành tinh tấn thì về cái cõi trời, còn ham vui giã đãi không chĩu tu hành thì trở lại cõi Diêm phù, nhập xác đầu thai làm người.
Tôi được chư thần cho biết, nếu người ở thế gian chỉ biết làm hiền, không hại đời, không phái đạo, sống theo nhơn đạo, hoặc tạo được chút phước mọn chi đó. Khi chết được chư thần rước về cảnh Nhơn Hiền tu thêm. Ở đây hàng ngày chỉ lo tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền lần hồi mới được về cõi trời. Hoặc giã khi chết có con cháu biết đạo, đem tiền bố thí, cúng chùa in kinh, tạt tượng hay mau vật phóng sanh mà hồi hương cho vong linh thì cũng được đắc quả về vời cõi trời hưởng phước.
Dẫu về được cõi Trời cũng phải tu thêm nhiều năm, nhiều kiếp (Kiếp ở đây là nói theo cõi đời, chớ các cõi khác không có sanh và tử) mới được về Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di đà. Còn nếu về trời ham vui không chịu tu hành đến ngày hết phước cũng bị đọa xuống trần gian chịu khổ nữa.
Người ở cõi Nhơn hiền đẹp và cao lớn hơn người ở cõi Diêm phù, một tháng thọ thực hai lần như cõi Địa Tiên. Hằng ngày không phải nhọc nhằn làm lụng chi tiết. Tất cả cảnh trí, cỏ cây, lầu đài đều do công đức tu hành biến hóa thành. Nơi đây khác hẳn với chúng sanh ở cõi Diêm Phù, nhọc nhằn xây dựng mà cũng không bền.
Đi dạo một vòng gặp các chư thần ở đây ra tiếp đón và hướng dẫn tôi đi dạo cảnh. Đi một lúc đến một tháp báu tôi thấy có một người nữ ngồi tụng kinh, lắng tai nghe biết là kinh Địa Tạng nhưng chẳng thấy quyển kinh. Tôi bèn hỏi: "Ở đây cũng tụng kinh nữa sao?" Người nữ đáp: "Thưa ngài, nơi đây rất cần tụng kinh để thâm nhập giáo lý của Đức Phật và để cầu siêu cho cửu huyền thất tổ. Vì ông nội tôi chết còn bị đọa nơi Địa ngục nên tôi phải tụng kinh Địa Tạng mà cầu siêu cho ông tôi.
Người dứt lời tôi xin kiếu từ để đi nơi khác. Lúc ấy nhằm giờ thọ trì kinh pháp và đi kinh hành nên không nói chuyện nhiều với ai được.
Nào tháp, nào chùa nguy nga đồ sộ, chư thần đưa tôi vào một ngôi chùa to lớn vô cùng và cho tôi biết chùa nầy có đến sáu trăm cây cột. Người trong chùa hành đủ pháp môn của Phật, ai hạp với pháp nào thì đến đó mà hành đạo, tùy theo căn cơ mỗi người, có lớp đang học có lớp đang hành, đó là sơ lược cảnh nhơn hiền.
Cảnh Long Vương
Khi từ giả cõi Nhơn hiền chư thần cũng dìu tôi đằng vân qua cảnh Long Vương và được các ngài cho biết về nhiệm vụ của Đức Long Vương đối với chúng sanh ở cõi Diêm Phù.
Đức LongVương là một vị Thánh Đế, ngài là chúa tể các vị Long Vương khác ở khắp biển và sông hồ. Ngài có tất cả 17 Hoàng Tử đều làm vua Long Vương ở khắp nơi trong quả địa cầu và 5 vị Công Chúa thường gọi là Ngũ Long Công Chúa. Hiện nay, Đức Long Vương đang hướng về Phật Pháp tu hành nhường sự cai quản lại cho các Hoàng Tử.
Cảnh Long Vương có một cái hang gió, một hang nước, một hang không khí (nói là hang vì nó giống như cái hang chớ thật ra mỗi cái hang to lớn lắm, và mỗi cái lại ăn thông vào một ngọn núi khổng lồ cao ngút tận mây, bên trong là máy nhiệm màu của Trời đất). Hang gió chuyển biến bốn mùa, vì có bốn cửa xoay chuyển tuần hoàn: Xuân, Hạ, Thu, Đông cho hợp thời tiết. Hang nước luân chuyển nguồn nước biển cả cho được điều hòa. Hang không khí đổi thay khí trời cho chúng sanh mới sống được. Hiện nay con người chết yểu vì không khí nhiễm nhiều khí độc làm biến hoại phần nào không khí thiên nhiên đó là ba hang cần yếu cho con người, thú vật và cây cỏ. Cảnh Long Vương chư thần đông vô số, nào thần rồng, thần rắn, thần rùa, các chư thần này có bổn phận biến chuyển nước và không khí. Còn riêng Đại thần tức thần Long Vương lo hộ trì Phật Pháp các nơi như: Chùa, tháp, những nơi có xá lợi, có tượng Phật, có kinh pháp và hộ trì các vị đại đức tăng ni tu hành chánh pháp, nghiêm trì giới luật. Các Long thần cũng hộ trì cư sĩ giữ tròn năm giới. Người đời gọi là ông tiên hay Long thần chớ thật là Đại thần Long Vương.
Cảnh Long Vương to tát hơn cảnh Địa Tiên, nhưng vì các hang gió, hang nước, hang không khí choáng mất đi nhiều.
Tôi cùng chư thần vào yết kiến Đức Long Vương ngài vô cùng mừng rỡ bèn cho sứ giả thỉnh Hoàng Hậu đến để hướng dẫn tôi dạo cảnh.
Cảnh Long Vương vô cùng xinh đẹp chẳng thua gì cảnh Địa Tiên, trăm hoa đua nở đủ màu sắc, rồng chầu, hổ phục khắp nơi. Hoàng hậu dẫn tôi đi ngay vào cung điện của các vị Công chúa. Một vị Công chúa hiện bị đọa ở cõi Diêm phù còn 4 vị nữa điều đi tu. Cung điện rất to lớn nguy nga, châu ngọc sáng lòe, nào quạt ngọc, chiếu ngà, bình báu đủ loại, cung nữ hằng ngày vẫn còn lo săn sóc cung điện. Bốn vị đi tu nhưng thỉnh thoảng còn trở về thăm cung điện, còn riêng vị bị đọa ở cõi Diêm phù thì bịt đường không còn lui tới. Vì Đức Long Vương sợ con ngài đắm đuối cõi trần không chịu tu hành làm sao trở về ngôi cũ thì ngài sẽ hổ thẹn với trăm quan cùng mười vua thập điện. Bởi cớ ấy nên Hoàng Hậu hết sức thiết tha yêu cầu tôi cố gắng độ cho Công chúa tu hành.
Hoàng Hậu cùng tôi ra khỏi cung điện, đến bãi Rồng, Rồng lớn có, nhỏ có đủ màu sắc rất oai nghi. Nhìn một lúc bắt rùng mình, sợ quá tôi bạch cùng Hoàng Hậu xin đi nơi khác. Dọc theo bãi cát không biết bao nhiêu là rùa, con nào con nấy bằng chiếc xe hơi, nào là kỳ đà, cua biển cỡ chiếc xe bò. Hoàng Hậu dẫn tôi đến một cái hồ rộng lớn chung quanh cây cối um tùm. Dưới hồ nhiều loại cá đủ màu, Hoàng Hậu cất tiếng bảo: "Các ngươi lội cho Hiền Tăng xem". Tự nhiên thấy cá gom lại màu nào theo màu nấy, mỗi màu thành một đoàn, đoàn này nối tiếp đoàn kia có hàng lối chỉnh tề trông rất đep mắt, như đoàn quân diễn hành tong ngày đại lễ. Mặt nước đang phẳng lặng bỗng dợn sóng ào ào. Khi chúng đua giáp vòng trở lại, chúng vọt mình lên khỏi mặt nước như reo vui chào đón.
Hoàng Hậu bảo:
Các ngươi tiếp tục diễn đi.
Tiếng Hoàng Hậu vừa dứt, thấy chúng lội đứng kết nhau thành vòng tròn, mỗi vòng một màu riêng biệt, kế những vòng tròn chuyển động, vòng sắc này lẫn lộn với vòng sắc khác như một đóa hoa khổng lồ trăm màu lẫn lộn. Thấy vậy tôi hết lời khen và nói: "Bạch Hoàng Hậu! Còn kiểu nào nữa bảo chúng làm luôn cho vui mắt". Ngài bảo: "Các ngươi quạt nước cho êm". Bầy cá liền nằm nghiêng trên mặt nước, con này nối đuôi con kia có dọc có hàng ngay ngắn như vải lụa đủ màu dài vô tận. Xem hoài không biết chán, thật công phu tập luyện rất nhiều, nay nhắc lại mà lòng còn vui thích. Kế Hoàng Hậu cho chúng nghỉ, chúng bèn lội lộn lại đủ màu, Hoàng Hậu phán:
Số cá này bắt ở biển đem về đây hàng ngày chư thần đến huấn luyện tập tành chúng, rồi tụng kinh chú nguyện cho chúng nó, dạy chúng nó lần đầu trong thời gian ba trăm sáu chục năm, lúc ấy cho chúng nó uống nước cam lồ rồi đọc chú thì chúng hóa thân người. Khi đã được thành người đem giáo pháp của Phật mà dạy chúng tu hành, đồng thời dạy về pháp hộ trì, đằng vân giá vỏ, khi chúng thông thuộc rồi mới cho đi độ đời đặng đắp bồi công đức. Lớp nào giỏi thì cho đi hộ trì Phật Pháp, số nào kém thì chuyển qua thần cây, thần nông, thần gió, thần nước, thần lửa...
Hễ lớp này tiến hóa lên thì bắt lớp cá khác vào hồ mà dạy nữa. Vì thế từ xưa đến nay cõi Long Vương này đào tạo không biết bao nhiêu Thần để đọ chúng sanh ở cõi Diêm Phù. Một số thần có bổn phận ghi chép điều ác, số khác ghi thiện. Một số hộ trì những vị tu hành và quan sát việc hành đạo của từng người như hàng ngày tụng kinh? Được bao nhiêu? Tu giờ nào? Nghỉ giờ nào? Niệm Phật lúc nào? Được bao nhiêu? Có nghiêm trì với luật hay không? Giữ tròn được giới đạo? Phạm giới nào rồi ghi vào sổ hàng tháng về tâu Thượng Đế. Chư thần ở cõi Diêm Phù tính ra còn đông hơn chúng sanh ở cõi ấy, nếu vị nào tu hành tinh tấn, tham thiền nhật định thì mắt thấy chư thần rõ ràng, như thấy vật ban ngày. Sở dĩ chúng sanh không nhìn thấy được chư thần vì bị sắc, tài, danh lợi làm mê mờ chơn tánh.
Hoàng Hậu phán xong tôi liền từ giã đoàn cá và khuyên chúng tu hành, bỗng chúng ngóc đầu lên khỏi mặt nước và đồng thanh niệm: " Nam mô Thường Tinh Tấn Bồ Tát" ba lần, làm tôi giật mình không ngờ lòai cá mà nói được, thật là lạ lùng! Làm Hòang Hậu cười xòa. Tôi thấy chúng khôn ngoan như vậy bèn dừng lại chú nguyện và Quy Y Phật, Pháp, Tăng cho chúng, trong lúc tôi quy cho chúng thấy chúng nghiêng đầu niệm Phật làm tôi cảm động vô cùng. Hoàng Hậu dẫn tôi đến một ngọn núi sáng rực hào quang tua tủa, tôi bèn hỏi:
Bạch Hoàng Hậu đó là núi chi vậy?
Hoàng Hậu đáp:
Không phải là núi mà chính là kho châu vật.
Vì vua Long Vương được chiếu chỉ của Thượng Đế phải cho thần quan sát lượm châu ngọc trong bể cá về chứa tại đây chớ lịnh Thượng Đế đem về bỏ đất Mõ thì ở cõi Diêm Phù, nay đã hơn sáu trăm năm rồi mà chưa được lịnh nên chư thần cứ tiếp tục lượm hoài. Nhưng kho này nhỏ hơn kho báu ở cõi Địa Tiên, chắc Hiền tăng đã được thấy. Kế Hoàng Hậu phán tiếp: "Khi Hiền Tăng trở lại cõi Diêm Phù khuyên chúng sanh ráng lo tu hành trong thời gian chẳng bao lâu nữa thì được hưởng của này. Bây giờ đừng tham ác làm chi mà gây tội lỗi sa vào Địa Ngục ngàn năm".
Tôi bèn hỏi:
- Bạch ngài chừng nào chúng sanh ở cõi Diêm Phù mới được hưởng của này?
Ngài bảo:
- Cơ Trời chẳng khá nói nhiều, đến năm Quý dậu thì thành công.
Nghe vậy tôi không hỏi nữa, Ngài bèn dẫn tôi đi chung quanh kho báu, tôi thấy nào là sư tử, cọp, rắn, kỳ đà, sấu và nhiều loại thú khác nữa to lớn có sừng, có nanh trôn rất ghê sợ mà tôi không biết tên chi. Con nào con nấy quá lớn làm tôi rùng mình rởn óc, nhưng nhìn lại thấy chúng hiền lành tôi cũng vững tâm. Mỗi khi Hoàng Hậu và tôi đi ngang qua con nào thì chúng đứng lên hai chân trước chắp lại, đầu gục gặc như xá chào, miệng niệm:
Mô Phật, mô Phật!
Tôi lấy làm lạ mà hỏi:
Nơi đây là cảnh thanh tịnh sao có thú quá nhiều?
Ngài đáp:
Đó cũng là sự tiến hóa lần lần, lớp này tiến lên làm người thì lớp khác tiến lên làm thú luôn luôn tiếp nối như vậy.
Tôi thấy lớp thú này khôn ngoan nên cũng dừng chân chú nguyện và quy y Phật Pháp Tăng cho chúng nó và khuyên chúng tinh tấn tu hành đặng sau này tiến lên làm người mà tu nữa.
Đến đó Hoàng Hậu đưa tôi về đến rồng vua Long Vương. Đức Long Vương từ trên ngai vàng bước xuống niềm nở đón chào, kế ngài phán cho trăm quan ra khỏi đền rồng truyền lệnh cho bốn vị Long thần đảo vô cho tôi xem.
Được lệnh bốn vị Long thần hiện hình rồng to lớn vọt thẳng lên mây múa lộn xem thật là đẹp mắt. Ban đầu còn thấy mình rồng rõ ràng lần lần không còn thấy nữa mà chỉ thấy như một cuộn mây lớn chuyển vận lộn nhào tới lui. Lúc ấy giông gió ào ào sóng biển trào lên có cuộn trong thật kinh thiên động địa. Các vị khác đứng xem vững vàng còn riêng tôi như muốn quay cuồng theo gió bèn hạ xuống bàn cẩm thạch mà ngồi nhưng lòng còn hãi hùng khiếp sợ không dám nhìn nữa. Thấy tôi như vậy đức Long Vương bèn truyền lệnh cho Lonh Thần ngưng đão võ. Ngài cùng Hoàng Hậu và trăm quan đưa tôi ra tận mé biển để trở lại cõi Diêm phù. Đây là sơ lược cảnh Long Vương.
Cõi Tứ Thiên Vương
Trong lúc khám phá mười ngục cùng ngục Vô gián, và trong lúc viếng cảnh Địa Tiên, Nhơn hiền cùng cảnh Long Vương, tôi cũng có chú ý tìm mẹ tôi nhưng không gặp, tôi bèn đến Nhất điện Tần Quảng Vương mà bạch:
- Bạch ngài! Tôi có người mẹ tên là Lê Thị Thêm chết ngày 18 tháng 10 năm Tý, đến nay cũng gần mãn tang, tôi cố ý kiếm tìm nhưng không gặp, xin ngài từ bi chỉ dạy cho tôi biết mẹ tôi hiện nay ở đâu?
Nhất điện Tần Quảng Vương phán:
- Cũng nhờ Hiền tăng có lòng chí hiếu, thọ trì kinh Địa Tạng hồi hướng cầu nguyện cho mẹ, nên thân mẫu của Hiền Tăng được về cõi Trời Tứ Thiên Vương hưởng phước mà cữu huyền thái tổ cũng được siêu sanh.
Nghe vậy tôi bèn quỳ xuống bạch:
- Bạch ngài! Tôi có thể về cõi trời Tứ Thiên Vương để tìm mẹ cho thỏa lòng ao ước được không?
Ngài phán:
- Quý thay! Nếu Hiền Tăng muốn đi tìm mẹ thì phải chí tâm cầu nguyện, chừng nào ơn trên ứng chứng mới được đi.
Được Nhất điện Tần Quảng Vương dạy bảo, tôi từ giả ngài để trở về cõi Diêm phù.
Chư thần đưa tôi về đến ngôi gia thì tôi nhập xác, hàng ngày tôi chí tâm cầu nguyện được về cõi Trời Tứ Thiên Vương tìm mẹ. Tôi nguyện như vậy trong thời gian ba tháng. Đến ngày 9 tháng giêng năm Mẹo. Thượng Đế Tứ Thiên Vương phê chiếu chỉ cho chư thần xuống trục hồi tôi ra khỏi xác rồi dẫn hồn tôi về thăm mẹ.
Chư thần dìu tôi bay lên mây đi được một lúc lâu nhìn xuống thấy núi non trùng điệp, đi một lúc nữa chỉ thấy mây đủ màu sắc rất đẹp mà không thấy chi nữa. Nhìn mặt trời thấy to lớn quá, các ngôi sao cũng thật lớn. Tôi định bụng chắc tại nơi đây gần mặt trời và các vì sao hơn cõi thế nên mình thấy lớn. đi một lúc lâu gặp một số Thánh thần đang đứng trên mây, các chư thần dẫn tôi đến trình chiếu chỉ. Các vị này cho đi qua và lấy làm hoan hỉ lắm.
Tôi được các vị thần cho biết đó là cửa Trời, nhưng tôi nhìn lại không thấy cửa nẽo thành trì chi hết mà chỉ thấy khoảng không mây phủ lớp lớp. Đi một lúc nữa thấy cảnh trí trang nghêm xinh đẹp hiện ra thật vô cùng rực rỡ, cây cối ngay hàng, lâu đài uy nghiêm lố nhố. Chứ thần cùng tôi hạ xuống lại trình chiếu chỉ lại một lần nữa rồi bay thẳng đến đền Rồng của Tứ Thiên Vương. Một đền Rồng to tát hiện ra, chung quanh đền đài lớp lớp đồ sộ uy nghiêm đẹp đẽ vô cùng, ánh sang đủ màu trong các đền đài tua tủa chiếu ra như ánh đèn ban đêm nơi đô thị. Nhưng ánh sang ở đây mát mẽ và suốt thấu tận các tầng mây. Mùi hương lạ ngạt ngào làm tâm hồn tôi nửa say nửa tỉnh, tiếng nhạc trời du dương trằm bổng văng vẳng từ xa vọng lại, thật cảnh thiên đường vui đẹp không cùng. Trước đền rồng có rồng chầu, hổ phục, long, lân, qui, phụng đứng có hàng. Những con vật này vừa to vừa đẹp nhiều màu sắc khác lạ cõi đời, chúng thỉnh thoảng rùng mình uốn khúc, con rờ râu mép, con vẫy đuôi múa, xem vẽ ung dung nhàn hạ lắm.
Khi tôi cùng chư thần vào, chúng đồng đứng dậy đón chào. Bước vào trong tôi thấy đền rồng cao vòi vọi rộng lớn vô cùng, xây cất bằng châu báu. Người ở đây sao to lớn quá, thân tôi sánh với người cõi Trời chẳng khác nào con cóc sánh với người ở thế gian, thấy mình bé nhỏ lòng hơi khiếp sợ. Được chư thần cho biết vị Trời chánh đế cao hai mươi bốn thước, mặt y đỏ, mão đỏ, hia đỏ: Vị Trời thường cao mười hai thước, mặt áo trắng, mão trắng, hia trắng. Vị đại Tiên cao mười sáu thước. Người Tiên đẹp hơn người Trời nhưng dưới quyền Trời chánh đế. Còn các vị tiên nhỏ màu sắc đủ lọai, tùy theo cấp bậc về công đức tu hành (Tuy cao nhưng đồng thanh đồng thủ).
Thẳng vào chánh điện xa xa, một vị to lớn mặc đồ đỏ đang ngự giữa, tôi biết ngay là Trời Tứ Thiên Vương bèn cùng chư thần tiến vào bái yết tung hô (tôi đã được chư thần dạy trước). Yết kiến xong Tứ Thiên Vương phán cho ngồi, tiếng ngài sang sảng như tiếng chuông đồng, kế ngài phán:
Hiền Tăng tuy người trọng tội, nhờ lời đại nguyện phá xong mười ngục cứu độ chúng sanh cũng nhiều, đức kia rất lớn. Nay vì lòng hiếu thảo cầu xin về trời gặp mẹ trẩm cũng rộng hồng ân. Hơn nữa, trẫm cũng muốn cho Hiền tăng về trời cho biết, sau nói lại cho chúng sanh nghe đặng chúng biết có Trời, có Phật, có Thánh, có Thần, để chúng sanh khỏi lầm tưởng ngoài cõi đời không còn ai nữa rồi mặc tình làm ác mà phải sa vào địa ngục.
Nay trẫm phán đôi lời cho Hiền Tăng rõ: Chúng sanh ở cõi Diêm Phù lòng tham ác dẫy đầy, nghiệp sát sanh quá nặng, cho nên chiến tranh khói lửa không ngừng. Đã thế còn loạn dâm, hủy đạo, ngổ nghịch, bất hiếu, bất trung, mở miệng ra là cống cao ngạo mạn, chửi Trời mắng đất, khi dễ Thánh Thấn. Hàng tháng chư thần về tâu tội lỗi của chúng sanh tràn ngập, còn người thiện về cõi khác rồi cho thần lôi thần hỏa tiêu hủy thế gian đặng lập lại đời thượng cổ cho người hiền chung hưởng. Nhưng đức Quán Âm vì lòng từ bi đã bao lần ngăn cản để ngài tìm cách cứu độ chúng sanh, nếu làm như vậy thì chúng sanh chết khổ tội nghiệp.
Cũng may, hiện nay nhiều vị Bồ tát ở cõi Trời Đâu suất vì lòng độ tha nên đã giáng trần độ thế rất nhiều. Nhờ các vị Bồ Tát giảng thuyết Kinh pháp nên chúng sanh biết đường tu tỉnh, ăn chay, niệm Phật, thọ trì Kinh pháp. Trẫm phán cho Hiền Tăng rõ: "Người nào giữ trọn tam quy ngũ giới, khi chết trẫm cho kim đồng ngọc nữ rước về cõi trời Tứ Thiên Vương này hưởng phước tu thêm. Còn từ năm giới tới mười giới thì được về các cõi Trời trên, hoặc về cõi Trời Đâu suất gặp Đức Phật Di Lặc giáo hóa tu thêm. Riêng những vị Tăng Ni Đại Đức khi bổn nguyện đã viên mãn thì về ngay cõi Cực lạc của Đức Phật A Di Đà. Còn những người vào hàng Phật Tử mà phá đạo, hại đời hoặc đã xuất gia thọ giới mà phá giới, phạm trai hoặc loạn dâm, đắm sắc khi chết bị đọa vào địa ngục không biết bao nhiêu năm để đền tội.
Còn những vị mặc dầu ở tại gia nhưng một lòng vì đạo, kiến thiết chùa chiền, in kinh ấn tống, ủng hộ tăng ni tu học, đó là hàng Bồ Tát tại gia. Phước báo này đến chổ vô lậu, cứ tô bồi công đức như vậy lần lần đến quả vị Niết Bàn. Vì ủng hộ tăng ni tức bảo tồn tăng bảo thường trụ. Thay mặt đức Như Lai giáo hóa chúng sanh. In kinh ấn tống là bảo tồn pháp bảo thường trụ ở thế gian để chúng sanh nương theo kinh pháp mà tu hành. Tuy nhiên, những vị tu bồi công đức trên phải luôn luôn khiêm nhường, đừng sanh tâm cống cao ngạo mạng mà tiêu mòn phước báu đi rất uổng.
Tất cả các Đức Phật đều muốn cho chúng sanh về đất Phật, tất cả các cõi trời đều muốn cho chúng sanh đặng về trời. Thế mà chúng sanh cứ mà làm ác, lao đầu vào địa ngục, thật là mê muội. Tuy biết rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tánh Phật ấy như hột giống vậy. Hột giống này phải được trồng trong đất đạo đức, hàng ngày phải được vun tước bằng pháp của Phật thì hột mới nẩy mầm lên cây, đơm bông kết trái Phật, tức thành Phật. Chớ như mê muội đem hột giống bỏ vào sình lầy tham ác, bỏ vào lửa đỏ bạo tàn, ngang ngược thì mọng thúi, hoặc ra tro, cuối cùng thành súc sanh ngạ quỷ chịu thống khổ nuôn đời. Trẫm phán bấy nhiêu lời Hiền Tăng cố nhớ về nói lại cho chúng sanh nghe".
Phán xong Ngài cho hai vị Tiên nữ gọi mẹ tôi đến, sau khi bái yết tung hô xong mẹ của tôi được tự tiện hàn huyên.
Tôi không nhìn được mẹ tôi vì bà cao lớn và xinh đẹp quá, nhưng nhờ tiếng nói không đổi nên tôi nhận ra. Còn mẹ tôi vừa thấy tôi bà mừng quá chạy lại ôm tôi bà nói: "Ủa Nhi, (vì tôi tên Nhi) con cũng được về trời nữa sao, vậy thì tâu tới tứ Thiên Vương cho mẹ con mình ở chung một chỗ để cùng tu hành. Nhi ạ! ở cõi trời vui lắm, các vị Bồ Tát ở cõi trời Đâu suất thường xuống đây thuyết pháp, hào quang các ngài sáng ánh tua tủa, ban đầu mẹ tưởng là Phật, mẹ mừng quá, mẹ lạy hoài không thôi, sau nhờ các vị Tiên nói mẹ mới biết là Bồ Tát. Mẹ nhờ con biết tu hành cầu siêu cho mẹ mới được về trời, thật con có hiếu với mẹ quá, bằng không mẹ còn khổ nữa biết ngày nào được ở đây.
Mẹ ở tận núi Hoa, chổ mẹ ở đẹp hơn đây nhiều lắm, một ngày ở đây dài lắm mẹ nghe các vị Tiên cho biết bằn gmột năm ở cõi thế. Lúc mẹ chết thằng Thinh (vì em tôi tên Thinh) làm một con bò va một con heo để làm đám ma, nếu không có con cầu siêu cho chúng nó hóa thân làm người thì mẹ phải đầu thai một kiếp làm bò và một kiếp làm heo để đền mạng. Ôi! Khổ biết bao nhiêu, thằng Thinh ngu quá nó tưởng làm như vậy là báo hiếu cho mẹ, nào ngờ nó làm hại mẹ phải làm súc sanh thật là đâu đớn. Nhưng việc đã qua rồi không nhắc lại làm chi, con hãy tâu với Tứ Thiên Vương xin về ở chung với mẹ đi, ở đây tu hành vui lắm, khỏi phải làm lụng gì hết.
Mẹ con mình ráng tu rồi sẽ được trở về cõi Trời đầu suất, mẹ nghe các vị Tiên nói ở Trời Đâu suất có Phật Di Lạc, nhờ ngài giáo hóa mình tu thêm sau một thời gian lâu mới về được cõi cực lạc của Đức Phật A Di Đà. Nè! Con thấy mẹ không, lúc này mẹ đẹp lắm phải không! Hồi mẹ mới về trời cũng giống như con ngày nay thật là nhỏ nhoi xấu xí quá chừng, thôi con đừng buồn, ở đây ít lâu rồi cũng lớn đẹp như mẹ vậy. Con ạ! Ở đây cúng dường lạ lắm, hễ tâm mình muống cúng dường vị Bồ Tát đang thuyết pháp loại hoa nào tự nhiên loại hoa ấy từ trên hư không đổ xuống tua tủa như mưa thật là vui. Mới về cõi Trời mẹ tâm tưởng để cúng dường như vậy chưa được, phải tu một thời gian sau mẹ mới cúng dường bằng cách tâm tưởng sang hoa.
Cõi Trời vui lắm, để rồi con thấy mẹ không nói sai đâu. Lúc mẹ còn sống thường mở máy thâu thanh để nghe và thích nhất tuồng hát bội, nhưng ở đây các vị Tiên nữ múa hát hay gấp bội lần, còn trên hư không nhạc trời tự nhiên trỗi thật hay mẹ nóikhông hết được. Thôi con đến xin cùng tứ Thiên Vương cho mẹ con mình ở chung rồi con sẽ thấy lời mẹ nói thật, còn nữa, còn nhiều chuyện lạ nữa, đến xin đi con". Bà nói huyên thuyên không ngừng nghỉ, vì lòng phàm còn nặng nên khi thấy mẹ tôi vui mừng kể lễ làm tôi mủi lòng nước mắt dầm dề.
Chư thần bèn cho mẹ tôi biết là tôi chưa chết vì lòng hiếu thảo muốn tìm mẹ mà thôi.
Vừa lúc ấy Tứ Thiên Vương phê chiếu chỉ cho phép tôi được dạo cảnh trời, tôi cùng chư thần yết kiến Tứ Thiên Vương rồi ra khỏi đền Rồng để dạo cảnh. Cảnh trời đẹp hơn cảnh Địa Tiên rất nhiều, tiếng gió thổi, chim kêu man mác nhẹ nhàng tưởng chừng như cảnh Tây Phương. Các vị Tiên cõi lạc, cõi công bay lơ lững trên không. Tiếng ống tiêu, ống sáo nghe thâm trầm, các loại chim hạt, chim công, chim quy cùng nhiều loại chim khác nữa mà tôi không biết tên đang nhảy múa ca hát tiếng cười, làm tôi ngây ngất tâm hồn, không muốn trở lại cõi trần đầy đâu khổ.
Các vị Tiên nữ từng nhóm, từng đoàn đủ màu sặc sở đang tung tăng múa hát. Cỏ hoa xinh đẹp nhiều đóa hoa to lớn như cái mâm mùi thơm bát ngát, cây cối đầy đàn thẳng tấp, thân cây trong sáng hoa quả đặc cành, không một gợi bụi không một chiếc lá rơi, không một cành cỏ dại, đất như pha lê cẩm thạch. Lầu ngà tháp ngọc vòi vọi tận mây, gió hây hây thổi mang hương thơm ngào ngạt hòa lẩn với tiếng sáo du dương, tiếng chim ca hát, tiếng lãnh lót của các vị tiên nữ làm tâm hồn tôi ngây ngất muốn bay bổng lên tận hư không. Nghĩ lại cảnh đời đua chen xô xát mà ngán ngẩm, nghĩ đến chiến tranh ly loạn ở cõi đời mà tê tái cõi lòng. Tôi hết muốn trở lại trần gian, nhưng nhớ đến lời đại nguyện tôi nhất quyết phải trở lại cảnh diêm phù. Trước là trả xong nghiệp quả, sau cho trọn lời đại nguyện, rồi tôi từ giã mẹ tôi để trở lại đền Rồng tâu cùng Tứ Thiên Vương phê chiếu chỉ cho tôi trở về cõi thế.
Đến nơi Tứ Thiên Vương phán: "Tuy cõi trời rộng bao la, tốt đẹp vô ngần, các vị Bồ Tát ở cõi trời Đâu suất thường đến thuyết pháp dạy đạo, song chúng tiên cứ mãi say sưa trong cảnh đẹp ít chịu tu hành. Nay trẫm thỉnh Hiền Tăng đến pháp đài giảng cho chúng tiên một thời pháp về cái khổ ở thế gian và nơi địa gục, đặng chúng tiên sanh tâm lo sợ mà tinh tấn tu hành, kẻo chúng tiên cứ mãi vui chơi đến ngày hết thuốc bị đọa lại trần gian thì tội lắm! Hiền Tăng đến ngay tháp đài ở núi hoa, tháp này có mười tám tầng dành cho các vị Bồ Tát đến thuyết pháp, nhưng khi đến nơi Hiền Tăng chỉ ngồi ở tầng thứ mười thuyết một thời pháp cho chúng tiên nghe". Được lệnh chư thần đưa tôi bay đến tháp đài. Tháp này cao vòi vọi. Không biết xây bằng thứ gì mà trong sáng lạ thường. Chung quanh tháp đài một khoảng trống mênh mông mặt đất như vàng ròng. Tôi đến ngồi ở tầng thứ mười thấy các vị tiên bốn phía từng đoàn, từng lũ đằng vân về tháp đông đảo như ngày hội.
Sau các vị Tiên ngồi theo thứ lớp, tôi nhìn xuống thấy thật có thứ tự màu áo nào ngồi theo nhóm nấy không xen lẫn lộn. Hết lớp này đến lớp khác đều đặng trang nghiêm.
Tôi bèn cất tiếng giảng về những điều khổ ở thế gian: (Ở đây tôi xin tóm lược nhựng điểm cốt yếu) nào cái khổ còn từ trong bào thai tối đen ngộp thở, nào cái khổ từ lúc mới sinh ra dại khờ ngu tối, yếu đuối sống nhờ nơi cha mẹ, nào cái khổ khi lớn lên tạo lập gia đình, lam lũ nhọc nhằn, đổ mồ hô, sôi nước mắt mới có miếng ăn, áo mặc, nhà ở. Nào những lúc bệnh tật ốm đau dày vò, nào những lúc già yếu, chân mỏi, da dùn, mắt lờ, tai điếc. Nào khi chết bức khổ than tâm. Còn bao nhiêu cái khổ thiên tai, hỏa hoạn, cái khổ về chiến tranh tàn phá, chết chóc, đến những cái khổ về tù đày, sanh ly tử biệt. Kế tôi nói về sự đâu khổ ở địa ngục.
Lúc ấy tôi thấy các vị Tiên nơm nớp lo sợ. Sau khi tôi giảng xong các vị Tiên tụ tập từng nhóm bàn tán với nhau, thấy vậy tôi bèn lân la với các vị Tiên, các ngài nói: "Nếu không có Hiền Tăng nói rõ về cảnh khổ ở thế gian chúng tôi đâu biết. Chúng tôi tưởng ở thế gian cũng sung sướng như ở cõi nầy nào ngờ khổ quá.
Chúng tôi ở đây nào có nghĩ tới năm tháng nào có thấy ai già, ai chết bao giờ, hễ bị tội là Thượng Đế đọa xuống trần gian, nhưng tưởng là đi du ngoạn một lúc vậy thôi nào ngờ khổ quá. Các vị Bồ Tát thường đến đây thuyết pháp mà chúng tôi nào có tin lời. Còn Hiền Tăng từ cõi thế lên đây nói rõ cảnh đời khổ sở làm chúng tôi thức tỉnh. Thôi chúng tôi bắt đầu tu theo Phật kẻo bị đọa xuống trần gian khổ lắm chịu sao cho nổi.
Một vị khác tiếp: "Thỉnh thoảng Hiền Tăng lên đây một lần nhắc nhở chúng Tiên tu hành tinh tấn chớ các chư thần thường xuống cõi Diêm phù quan sát về nói lại lắm lúc chúng Tiên cũng chẳng mấy làm tin lắm".
Tôi bèn cáo biệt các vị Tiên, trở lại đền rồng lãnh chiếu chỉ trở về dương thế.
Đến nơi tôi bái yết xong, Tứ Thiên Vương phán: "Hôm nay Hiền Tăng đã toại nguyện khi trở về khi trở về cõi Diêm phù nhắc nhở chúng sanh tin tấn tu hành, cảnh đẹp ở cõi trời rất rộng đang chờ đón chúng sanh tu thiện. Hiền Tăng nhắc nhở chúng sanh đừng đắm đuối theo xác thân giả tạm, thời gian nó cũng tiêu hoại, phải lo phần hồn là cái chắc thật lâu dài, phải nuôi phần hồn bằng giáo pháp của Phật, phải biết quên mình vì kẻ khác đửng ích kỷ thì cửa trời đang mở rộng đón chờ".
Phán xong ngài phê chiếu chỉ cho chư thần đưa tôi về cõi thế.
Mô Phật, đây là lời sơ lược về cảnh trời Tứ Thiên Vương, nếu nói cho hết thì chẳng cùng, hơn nữa tôi chỉ đằng vân ở trên đi lướt qua các cảnh chớ không có thời giờ quan sát tỉ mỉ từng chi tiết một, và ở cõi trời nhiều vật đẹp lạ mà thế gian không có nên tôi cũng không biết gọi là gì.
Cõi trời là cõi thật, muôn đời nghìn kiếp chẳng đổi thay, nơi thánh nhân đầy đủ phước duyên hưởng thọ, trí phàm như tôi không sao tả cho tường tận được. Nếu chư vị Phật tử nào còn nghi ngờ điều chi trong quyển này xin đến Liên Hoa tịnh thất Mỹ Tho chúng tôi vui lòng hầu chuyện cùng quý vị.
Chúng tôi nguyện đem công đức này hồi hướng cho tất cả pháp giới chúng sanh đồng quay về bờ giác.
Viết xong ngày 28-11-1971
Nhằm ngày 11 tháng 10 năm Tân Hợi
Thích nữ Huệ Hiền Kính bút
Nhận xét
Đăng nhận xét